Phần I. Câu hỏi trắc
nghiệm
(Thí
sinh khoanh tròn câu trả lời đúng)
1.Hỏi: Bộ luật
dân sự năm 2015 được ban hành khi nào và có hiệu lực kể từ ngày nào?
a) Bộ luật dân sự
năm 2015 được ban hành ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/07/2016.
b) Bộ luật dân sự
năm 2015 được ban hành ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/12/2016.
Oc) Bộ luật dân sự năm 2015 được ban
hành ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017.
2. Hỏi:
Bộ luật dân sự năm 2015 điều chỉnh những nội dung nào dưới đây?
a) Quy định địa
vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân.
b) Quy định địa
vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác.
c) Quyền, nghĩa
vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình
thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách
nhiệm.
Od) Phương án a và c.
3.
Hỏi: Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung người
nào dưới đây phải có người giám hộ?
Oa) Người mất
năng lực hành vi dân sự.
Ob) Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
c) Người hạn chế năng lực hành vi
dân sự.
4. Hỏi: Năng lực hành vi dân sự của cá
nhân phát sinh từ thời điểm nào?
a) Khi là bào thai.
b)
Khi sinh ra.
Oc)Đủ 6 tuổi trở lên.
5. Hỏi: Cơ quan nào có thẩm quyền
tuyên bố một người là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi và chỉ định việc giám hộ cho người này?
Oa) Ủy ban
nhân dân cấp xã.
b) Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Oc) Tòa án
nhân dân.
6. Hỏi: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, cơ quan Nhà nước ở Trung ương, ở địa phương khi tham gia quan hệ
dân sự thì thực hiện theo nguyên tắc nào sau đây?
a)
Mệnh lệnh hành chính và không phải chịu trách nhiệm dân sự.
Ob) Bình đẳng với các chủ thể khác và phải chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của Bộ luật dân sự.
7. Hỏi: Ai là chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự trong trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân tham gia quan hệ dân sự?
Oa) Các thành viên của hộ gia đình, tổ
hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
b) Người đại diện theo ủy quyền.
Oc) Các
thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
hoặc người đại diện theo ủy quyền.
8. Hỏi: Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì
cần phải tuân thủ điều kiện nào sau đây?
a)
Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập.
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự
hoàn toàn tự nguyện.
c) Mục đích và nội dung của giao dịch
dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
d) Hình thức của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Oe)
Tất cả các phương án trên.
9. Hỏi: Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình
thức thì vô hiệu, trừ trường hợp nào sau đây?
a) Giao dịch dân sự đã được xác lập
theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một
bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực
của giao dịch đó.
b) Giao dịch dân sự đã được xác lập
bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một
bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực
của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công
chứng, chứng thực.
Oc)Tất
cả các phương án trên.
10. Hỏi: Trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu thì sẽ
có những hậu quả pháp lý nào đối với chủ thể giao dịch?
a) Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
b) Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận.Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền
để hoàn trả.
c) Bên ngay tình trong việc thu hoa
lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
d)
Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Oe) Tất cả các phương án trên.
11. Hỏi: Quyền đại diện được xác lập dựa trên căn cứ nào dưới đây?
a) Theo ủy quyền giữa người được đại
diện và người đại diện.
b) Theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
c) Theo điều lệ của pháp nhân.
d) Theo quy định của pháp luật.
Oe) Tất cả
các phương án trên.
12. Hỏi: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm những biện pháp
nào sau đây?
a) Cầm cố tài sản.
b) Thế chấp tài sản.
c) Đặt cọc.
d) Ký cược.
đ) Ký quỹ.
e) Bảo lưu quyền sở hữu.
g) Bảo lãnh.
h) Tín chấp.
i) Cầm giữ tài sản.
Ok) Tất cả các phương án
trên.
13. Hỏi: Quyền nào dưới đây cho phép người không phải là
chủ sở hữu có quyền trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của
người khác?
a) Quyền đối với bất động sản liền kề.
b) Quyền hưởng dụng.
c) Quyền bề
mặt.
Od) Tất cả các phương án
trên.
14. Hỏi: Trong hợp đồng
vay tài sản có lãi, thỏa thuận về lãi suất của các bên không được vượt quá mức
lãi suất nào sau đây?
a) 20%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
b) 30%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
15. Hỏi: Kể từ thời điểm mở thừa kế,
người thừa kế phải có yêu cầu chia di sản trong
thời hạn nào dưới đây?
a) 10 năm đối với cả bất động sản và
động sản.
b) 20 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản.
Oc) 30 năm đối với
bất động sản, 10 năm đối với động sản.
16. Hỏi: Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc với điều kiện gì?
a) Được cha, mẹ đồng ý.
b) Được người giám hộ đồng ý.
Oc)Tất cả các phương án trên.
17. Hỏi: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết
bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy
bản di chúc thì cần ít nhất mấy người làm chứng?
a) Ít nhất một người làm chứng.
Ob) Ít nhất
hai người làm chứng.
c) Ít nhất ba người làm chứng.
18. Hỏi: Điều kiện nào dưới đây để di chúc hợp pháp?
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt
trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.
b) Nội dung của di chúc không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy
định của luật.
Oc) Tất cả các phương án trên.
19. Hỏi: Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp nào
dưới đây?
a) Không có
di chúc.
b) Di chúc
không hợp pháp.
c) Những người
thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế.
d) Những người
được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc
từ chối nhận di sản.
e) Phần di sản
không được định đoạt trong di chúc.
f) Phần di sản
có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật.
g) Phần di sản
có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng
di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng
không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Oh) Tất cả
các phương án trên.
20. Hỏi: Hàng thừa kế thứ nhất gồm những ai?
Oa) Vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
b) Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ của
người chết.
c) Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con
đẻ của người chết.
Phần II. Câu hỏi Thi viết
(Thí sinh viết câu trả lời)
Câu hỏi 1. Hãy kể tên
những quyền nhân thân và phân tích điểm mới được quy định tại Bộ luật dân sự
năm 2015 về quyền này?
Quyền nhân thân của cá nhân đã được cụ thể hóa đầy đủ
nhằm xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ dân sự được quy định
trong Hiến pháp và Điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Trong phạm vi bài viết này, tôi đề cập đến các điểm mới liên quan đến quyền
nhân thân của cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm
2005. Cụ thể:
1. Bổ sung trường hợp loại trừ năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Trước đây, người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp
mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự. Hiện nay, Khoản 2
Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.
2. Không còn khái niệm không có năng lực hành vi dân sự
Khoản 2 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người chưa đủ 6 tuổi
được xếp vào chung nhóm người chưa thành niên, và giữ nguyên quy định về giao
dịch dân sự đối với đối tượng này. Đồng thời, sửa đổi quy định về giao dịch
dân sự đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi”.
Khoản 4 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao
dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân
sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.
3. Kết luận giám định mất năng lực hành vi dân sự phải là kết luận giám định
pháp y tâm thần
Khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thêm các cụm từ “cơ
quan, tổ chức hữu quan”, “pháp y tâm thần” vào quy định về mất năng
lực hành vi dân sự: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền,
lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận
giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự
tthì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự ”.
4. Quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Bên cạnh trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự
như Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định, Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015
bổ sung thêm quy định về “Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi”. Do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
5. Bổ sung quy định quyền nhân thân với các đối tượng khiếm khuyết năng lực
hành vi dân sự
Khoản 2 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
- Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của
người này đồng ý theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, luật khác có
liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.
- Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của
người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng
hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những người này thì phải
được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ
trường hợp Bộ luật dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định khác.
6. Quy định cụ thể về quyền có họ, tên
Ngoài các quy định đã được nêu tại Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 26 Bộ
luật dân sự năm 2015 bổ sung một số nội dung sau một cách chi tiết, cụ
thể:
- Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa
thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập
quán.
- Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của
mẹ đẻ.
- Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận
làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của
mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi.
- Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo
họ của người đó.
- Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được
nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo đề nghị của người đứng
đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theođề nghị của người có yêu cầu đăng ký
khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng.
- Cha đẻ, mẹ đẻ được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015 là cha, mẹ
được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được
sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
- Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của
Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.
- Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác hoặctrái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đã nêu
trên.
7. Về quyền thay đổi họ và thay đổi tên
Điều 27 và Điều 28 Bộ luật dân sự năm 2015 đã tách riêng quyền thay đổi
họ và quyền thay đổi tên thành 02 Điều, đồng thời, cụ thể từng trường hợp được
phép thay đổi họ, trường hợp được phép thay đổi tên.
1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay
đổi họ trong trường hợp sau:
- Thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại.
- Thay đổi họ cho con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi
hoặc họ của mẹ nuôi theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi.
- Khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu
lấy lại họ cho người đó theo họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ.
- Thay đổi họ cho con theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc của con khi xác định
cha, mẹ cho con.
- Thay đổi họ của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình.
- Thay đổi họ theo họ của vợ, họ của chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước
ngoài là công dân hoặc lấy lại họ trước khi thay đổi.
- Thay đổi họ của con khi cha, mẹ thay đổi họ.
- Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
2. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay
đổi tên trong trường hợp sau:
- Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng
đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó.
- Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi
người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy
lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt.
- Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con.
- Thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình.
- Thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công
dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi.
- Thay đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới
tính.
- Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
8. Về quyền xác định, xác định lại dân tộc
Điều 29 Bộ luật dân sự năm 2015 đã ưu tiên nguyên tắc thỏa thuận khi xác
định dân tộc của con trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc 02 dân tộc khác nhau.
Nếu không thỏa thuận thì xác định theo tập quán. Trường hợp tập quán khác nhau
thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
- Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận
làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi
theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì
dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.
- Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được
nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ
sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghịcủa người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ
em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
- Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình.
- Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc
trong trường hợp: xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ nếu cha đẻ,
mẹ đẻ thuộc 02 dân tộc khác nhau; xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ
đẻ nếu con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.
9. Bổ sung trường hợp khai sinh, khai tử cho trẻ chết sau khi sinh
Điều 30 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bổ sung trường hợp khai sinh, khai tử
cho trẻ chết sau khi sinh: Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở
lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai
mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ
có yêu cầu.
10. Bổ sung quy định quyền đối với quốc tịch
Ngoài các quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 31 Bộ luật
dân sự năm 2015 bổ sung quy định: “Quyền của người không quốc tịch cư trú,
sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm theo luật”.
11. Quy định các trường hợp sử dụng hình ảnh của người khác mà không
cần có sự đồng ý của người đó
Điều 32 Bộ luật dân sự năm năm 2015 quy định các trường hợp sử dụng hình
ảnh của người khác mà không cần có sự đồng ý của người đó:
- Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau không cần có sự đồng ý của người
có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ như: Hình ảnh được sử
dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; Hình ảnh được sử dụng từ
các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể
thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh;
- Ngoài ra, việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì
phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác.
Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định thì người có hình ảnh có quyền yêu
cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt
hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định pháp luật.
12. Thừa nhận quyền sống bên cạnh quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng,
sức khỏe, thân thể
Điều 33 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất
khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe”.
Đồng thời nhấn mạnh rằng: “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
- Thêm sự lựa chọn về trách nhiệm cho người phát hiện người bị tai nạn, bệnh
tật mà tính mạng bị đe dọa: “hoặc tự mình thực hiện hoặc yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở khám chữa bệnh gần
nhất”.
Bên cạnh sự đồng ý của người được thực hiện gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép
mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa bệnh mới
trên cơ thể người; thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức
thử nghiệm nào khác trên cơ thể người thì yêu cầu việc thực hiện này phải do tổ
chức có thẩm quyền thực hiện.
- Thay cụm từ “người đứng đầu cơ sở y tế” thành cụm từ “người có thẩm
quyền của cơ sở khám, chữa bệnh”: “Trường hợp người được thử nghiệm là
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha,
mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người giám hộ của người đó đồng ý.
Trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý
kiến của những người nêu trên thì phải có quyết định của người có thẩm quyền
của cơ sở khám, chữa bệnh”.
13. Về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
Trước đây, Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định ngắn gọn: “Danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”.
Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể như sau:
- Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật
bảo vệ.
- Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh
dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân
chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những
người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật
liên quan có quy định khác.
- Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng
tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính
bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan,
tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
- Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố thông tin đó là không đúng.
- Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì
ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông
tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.
14. Về quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
Điều 35 Bộ luật dân sự năm 2015 đã gộp chung quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền
hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết thành 01 điều, đồng thời cụ thể nội dung
quy định này:
- Cá nhân có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô,
bộ phận cơ thể, hiến xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người
khác hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.
- Cá nhân có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho
mình.
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học có
quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược
học và các nghiên cứu khoa học khác.
- Việc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người, hiến, lấy xác phải tuân thủ theo các
điều kiện và được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015,
Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác và luật khác có
liên quan.
15. Quyền xác định lại giới tính
Điều 36 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm hệ quả pháp lý do xác định lại
giới tính: “Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa
vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân
thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật dân
sự 2015 và luật khác có liên quan”.
16. Lần đầu tiên, Bộ luật dân sự năm 2015 thừa nhận việc chuyển đổi
giới tính
Đây là điểm mới nổi bật tại Bộ luật dân sự năm 2015 được cộng đồng người dân
quan tâm rất nhiều. Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2015 cho phép chuyển đổi
giới tính theo quy định của pháp luật. Theo đó, cá nhân đã chuyển đổi giới tính
có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ
tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính theo quy định của Bộ luật
này và luật khác có liên quan.
17. Về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
Quyền này được Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2015 nhân rộng ra từ quyền bí
mật đời tư quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005:
–
Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được
pháp luật bảo vệ.
– Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử
dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành
viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
– Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao
đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc
bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử
và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực
hiện trong trường hợp luật quy định.
– Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác
lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
18. Về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình
Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 gộp chung các quyền về kết hôn, ly hôn, nuôi
con, hưởng quyền chăm sóc của các thành viên khác trong gia đình thành 01 điều:
– Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình ðẳng của vợ chồng, quyền xác
ðịnh cha, mẹ, con, quyền ðýợc nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các
quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ
giữa các thành viên gia đình.
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.
– Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có
liên quan.
19. Về nơi cư trú của cá nhân
Bên cạnh các quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 40 Bộ
luật dân sự năm 2015 bổ sung: “Trường hợp một bên trong quan hệ dân
sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông
báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới”.
20. Về giám hộ
Điều 46 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể về việc giám hộ. Đồng thời,
thay cụm từ “tổ chức” thành “pháp nhân” tại quy định sau:
– Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân
cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
lựa chọn người giám hộ cho mình (gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
(gọi chung là người được giám hộ).
– Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì
phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại
thời điểm yêu cầu.
– Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định pháp luật về hộ tịch.
– Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ của người giám hộ.
21. Bổ sung thêm đối tượng được giám hộ
Ngoài các đối tượng được giám hộ quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005,
Điều 47 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung các đối tượng sau được
giám hộ:
– Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi.
– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
22. Quy định cụ thể về người giám hộ
So với Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 48 Bộ luật dân sự năm 2015
quy định cụ thể hơn về người giám hộ:
– Cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện quy định được làm người giám hộ.
– Trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho
mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn
là người giám hộ nếu người này đồng ý. Việc lựa chọn người giám hộ phải được
lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
– Việc giám hộ không chỉ được thực hiện bởi cá nhân: “Một cá nhân, pháp nhân
có thể giám hộ cho nhiều người”.
23. Điều kiện của cá nhân làm người giám hộ
Điều 49 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định lại các điều kiện cần thiết của
một cá nhân làm người giám hộ:
– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
– Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa
vụ của người giám hộ.
– Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án
nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
– Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành
niên.
24. Lần đầu tiên, quy định điều kiện của pháp nhân làm người giám hộ
Trước đây, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định chỉ có cá nhân mới được phép
làm người giám hộ, Điều 50 Bộ luật dân sự năm 2015 mở rộng việc
giám hộ không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân. Pháp nhân có đủ các điều kiện
sau có thể làm người giám hộ: có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc
giám hộ; có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
25. Về giám sát việc giám hộ
Điều 51 Bộ luật dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung thêm nội dung về giám sát
việc giám hộ, cụ thể:
– Cử người giám sát việc giám hộ không còn là trách nhiệm của người thân thích
của người được giám hộ mà việc này được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận: Người
thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ
trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người
giám sát việc giám hộ (thay thế cụm từ “có trách nhiệm” thành cụm từ “thỏa
thuận”).
Việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó.
Trường hợp giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được
giám hộ thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
của người được giám hộ.
– Thành phần người thân thích của người được giám hộ không thay đổi so với
trước, tuy nhiên làm rõ từ “bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột”
thay vì sử dụng từ “bác, chú, cậu, cô, dì” như Bộ luật dân sự 2005.
– Nêu rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về việc cử, chọn người
giám sát việc giám hộ: “Trường hợp có tranh chấp về việc cử, chọn người giám
sát việc giám hộ thì Tòa án quyết định”.
– Quy định cụ thể về người giám sát việc giám hộ và quyền, nghĩa vụ của người
này. Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu
là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát.
26. Về quyền và nghĩa vụ của người giám hộ
Điều 56 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung về nghĩa vụ của người
giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi như sau:
“Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”.
Điều 57 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người giám hộ đối với
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: “Người giám hộ của người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ theo quyết định của
Tòa án trong số các nghĩa vụ sau: Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho
người được giám hộ; Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
Quản lý tài sản của người được giám hộ; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người được giám hộ”.
Điều 58 Bộ luật dân sự năm 2015 đã phân định rõ quyền của người giám hộ
của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự và người giám hộ
của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:
– Đối với người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự có các quyền sau:
+ Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu
cầu thiết yếu của người được giám hộ.
+ Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ.
+ Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự và thực hiện các quyền khác theo quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người được giám hộ.
– Đối với người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
có quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền sau:
+ Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu
cầu thiết yếu của người được giám hộ.
+ Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ.
+ Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự và thực hiện các quyền khác theo quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người được giám hộ.
27. Về thay đổi người giám hộ
Điều 60 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được thay đổi người
giám hộ:
– Người giám hộ là cá nhân bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự ,
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, mất năng lực hành vi dân sự.
– Thủ tục thay đổi người giám hộ không thực hiện theo Bộ luật dân sự mà thực
hiện theo quy định pháp luật về hộ tịch: “Thủ tục thay đổi người giám hộ
được thực hiện theo quy định pháp luật về hộ tịch”.
28. Về hậu quả chấm dứt việc giám hộ
Điều 63 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung các nội dung sau:
- Trường hợp người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh
toán tài sản với người được giám hộ, chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho người được giám hộ;
- Trường hợp chấm dứt việc giám hộ do cha, mẹ của người được giám hộ là người
chưa thành niên đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, người
được giám hộ được nhận làm con nuôi thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày chấm
dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản và chuyển giao quyền, nghĩa
vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho cha, mẹ
của người được giám hộ.
- Việc thanh toán tài sản và chuyển giao quyền, nghĩa vụ quy định được lập
thành văn bản với sự giám sát của người giám sát việc giám hộ.
Đồng thời, cụ thể hóa nội dung hậu quả chấm dứt việc giám hộ trong trường hợp
người được giám hộ chết: Trường hợp người được giám hộ chết thì trong thời hạn
03 tháng, kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản
với người thừa kế hoặc giao tài sản cho người quản lý di sản của người được
giám hộ, chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích
của người được giám hộ cho người thừa kế của người được giám hộ. Nếu hết thời
hạn đó mà chưa xác định được người thừa kế thì người giám hộ tiếp tục quản lý
tài sản của người được giám hộ cho đến khi tài sản được giải quyết theo quy
định pháp luật về thừa kế và thông báo cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
của người được giám hộ.
29. Về nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú
Khoản 3 Điều 66 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nghĩa vụ: “Thanh toán
nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết
định của Tòa án”.
30. Về tuyên bố mất tích và hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích
Khoản 2, 3 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung về tuyên bố
mất tích như sau:
– Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án
giải quyết cho ly hôn theo quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình.
– Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú
theo quy định pháp luật về hộ tịch.
Khoản 4 Điều 70 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung về huỷ bỏ
quyết định tuyên bố mất tích như sau: “Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết
định tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
cư trú của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định pháp luật về hộ
tịch”.
31. Về tuyên bố chết và hủy bỏ quyết định tuyên bố chết
Khoản 1, 3 Điều 71 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
- Kéo dài thời gian tuyên bố một người là đã chết đối với trường hợp bị tai
nạn, thảm họa thiên tai: “Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm,
kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức
xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (trước đây, quy
định thời gian này là 01 năm)”.
- Bổ sung quy định sau: “Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết
phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã
chết để ghi chú theo quy định pháp luật về hộ tịch”.
Khoản 4, 5 Điều 73 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bổ sung thêm nội dung
liên quan đến huỷ bỏ quyết định tuyên bố chết như sau:
- Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 2015, Luật hôn nhân và gia đình.
- Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải
được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết
để ghi chú theo quy định pháp luật về hộ tịch.
Như vậy, Bộ luật dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung liên quan
đến quyền nhân thân của cá nhân so với Bộ luật dân sự năm 2005. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử xây dựng pháp luật, vấn đề xác định lại giới tính đã được
ghi nhận. Như đã phân tích ở trên, Điều 37 Bộ luật dân sự năm năm 2015
quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật.
Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch
theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới
tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.
Khi ghi nhận quy định này, Bộ luật dân sự năm 2015 đã đáp ứng được nhu
cầu của một bộ phận công dân trong xã hội mà không trái với truyền thống, phong
tục tốt đẹp của dân tộc và phù hợp với thông lệ quốc tế chung. Nhà nước cần sớm
có hướng dẫn để người được hưởng quyền cũng như các cơ quan, tổ chức liên quan
dễ dàng áp dụng. Vấn đề xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính trong Bộ
luật dân sự năm 2015 được xem là một bước tiến mới, bắt kịp xu thế toàn
cầu trong hoạt động lập pháp của Việt Nam và là một tín hiệu đáng mừng cho cộng
đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam trong quá trình đấu
tranh để được xã hội và pháp luật công nhận.
Câu hỏi 2. Hãy nêu quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về sở hữu chung của
các thành viên gia đình và sở hữu chung của vợ chồng?
Theo đó Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định sở
hữu chung của các thành viên trong gia đình như sau:
1.Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống
chung gồm tài sản do các thành viên góp, cùng nhau tạo lập nên và những
tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và
luật khác có liên quan.
2.Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt chung của các thành
viên trong gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định
đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập
chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình
là người thành niên có năng lực hành vi dân sư đầy đủ, trừ trường hợp luật có
quy định khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở
hữu chung theo phần quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ
trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.
Như vậy, nguồn gốc tài sản chung của các thành viên trong
gia đình hình thành trên cơ sở đóng góp, cùng tạo lập theo các căn cứ
xác lập quyền sở hữu khác được pháp luật thừa nhận; cơ chế thực hiện
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung giữa các thành viên gia đình
là cơ chế thỏa thuận, các thành viên gia đình thống nhất ý chí về các
trường hợp chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản; sự thỏa thuận của
các thành viên trong hộ gia đình đối với chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung khi tài sản này là động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập
chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên trong gia
đình; trường hợp các bên không thỏa thuận, pháp luật không quy định thì buộc
các thành viên trong ia đình
thực hiện quyền sở hữu theo nguyên tắc chung theo phần, trừ trường hợp sở hữu
chung của vợ chồng.
Câu hỏi 3. Hãy nêu nội
dung căn cứ, nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân?
(Thí sinh viết không quá 10 trang A4 tương đương
3.500 từ)
Câu hỏi. Hãy trình bày và phân tích những điểm
mới cơ bản của Bộ luật dân sự năm 2015 trong việc thực hiện, bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản và quyền thừa kế?
1. Quy định về “chiếm hữu” là chế định độc lập với quyền
sở hữu
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu bao gồm ba quyền
năng là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu. Như vậy, chiếm
hữu là một trong những quyền năng mà chủ sở hữu tài sản có được đối với tài sản
của mình. Với quy định như vậy thì quyền chiếm hữu là kết quả của quyền sở hữu,
có nghĩa là phải có quyền sở hữu thì mới phát sinh quyền năng chiếm hữu, quy
định này không hợp lý đối với những trường hợp xuất phát từ tình trạng chiếm
hữu hợp pháp của các chủ thể mà đã cho phép xác lập quyền sở hữu hợp pháp cho
họ trong Bộ luật Dân sự năm 2005 như các quy định: Xác lập quyền sở hữu đối với
vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu; xác lập quyền sở hữu đối với
vật bị chôn giấu, bị chìm đắm chưa được tìm thấy.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung chế định chiếm hữu thành một chế định độc
lập với quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản theo cách tiếp
cận tôn trọng tình trạng thực tế - mối quan hệ thực tế giữa người chiếm hữu và
tài sản.
Quy định mới về chiếm hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cụ thể hóa nội dung,
tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền sở hữu, quyền bình đẳng trước pháp luật và trong đời sống dân sự. Bảo đảm
trật tự xã hội, sự ổn định của giao dịch, giá trị kinh tế của tài sản, sự thiện
chí trong quan hệ dân sự. Đối với người chiếm hữu vật thì họ có quyền yêu cầu
Nhà nước can thiệp để chống lại hành vi của người khác làm ảnh hưởng đến việc
chiếm giữ ổn định và hợp pháp của mình. Đồng thời, bằng quy định suy đoán về
tình trạng và quyền của người chiếm hữu đã công nhận người chiếm hữu có những
quyền pháp lý nhất định. Người đang chiếm hữu vật được suy đoán là người có
quyền hợp pháp đối với tài sản và sự suy đoán này có ảnh hưởng rất lớn đến
quyền lợi của người thứ ba trong trường hợp họ là người chiếm hữu ngay tình đối
với tài sản.
2. Những điểm mới trong quy định về quyền sở hữu
Quyền sở hữu được coi là vật quyền thứ nhất, tuyệt đối và trọn vẹn nhất so với
các loại vật quyền khác. Chủ sở hữu có toàn quyền đối với vật, từ nắm giữ, kiểm
soát về phương diện vật chất cho đến khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
ích từ vật và quyết định số phận vật chất, pháp lý của vật đó.
Tại chương về quyền sở hữu có nhiều vấn đề đã được quy định như: Quy định
chung, nội dung quyền sở hữu, hình thức sở hữu, xác lập, chấm dứt quyền sở hữu.
Trong đó có những cải tiến cho phù hợp trong giao lưu dân sự trong xã hội hiện
nay. Cụ thể:
2.1. Về hình thức sở hữu (từ Điều 197 đến Điều 220)
Để cụ thể hóa và để bảo đảm sự thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp
năm 2013 và trên cơ sở vận dụng nguyên tắc việc xác định các hình thức sở hữu
cần phải dựa vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền năng của chủ
sở hữu, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận 03 hình thức sở hữu: Sở hữu toàn
dân (từ Điều 197 đến Điều 204), sở hữu riêng (Điều 205 và Điều 206) và sở hữu
chung (từ Điều 207 đến Điều 220) thay vì việc ghi nhận 06 hình thức sở hữu như
trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Việc quy định hình thức sở hữu như vậy có ý
nghĩa quan trọng:
Thứ nhất, sự phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh
thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đã được ghi nhận tại các điều 32, 51 và 53, đồng thời cũng phù
hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu, theo đó, khi xác định hình thức
sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn
cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành.
Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước là đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có
thể xác định Nhà nước chính là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
các tài sản này. Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật Dân sự năm 2015
ghi nhận cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản công.
Thứ ba, tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân (trong Bộ luật Dân sự
năm 2005 được gọi là hình thức sở hữu nhà nước) là một hình thức sở hữu đặc
biệt, không thể coi là một dạng của sở hữu riêng hoặc sở hữu chung, do đó, các
quy định này tạo ra một chế độ pháp lý riêng biệt đối với hình thức sở hữu này.
2.2. Về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật (Điều 236)
Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự, sự thống nhất trong quy
định pháp luật liên quan đến thời hiệu hưởng quyền, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định nguyên tắc chung về thời hiệu xác lập quyền sở hữu do chiếm hữu, được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật mà không phân biệt tài sản đó thuộc sở hữu
của ai, theo đó, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với
động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể
từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có
liên quan quy định khác.
3. Quyền khác đối với tài sản (chương XIV)
Để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn, thuận lợi hơn cho việc khai thác, sử dụng một
cách hiệu quả các tài sản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và tạo cơ chế
pháp lý để các chủ thể không phải là chủ sở hữu thực hiện quyền đối với tài sản
thuộc sở hữu của chủ thể khác, bảo đảm khai thác được nhiều nhất lợi ích trên
cùng một tài sản, bảo đảm trật tự, ổn định các quan hệ có liên quan, Bộ luật
Dân sự năm 2015 sửa đổi quy định về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và bổ sung quy định về quyền hưởng dụng, quyền bề
mặt.
Với những cải tiến và bổ sung như trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã hoàn thiện
các quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản phù hợp với các quan
điểm chỉ đạo xây dựng bộ luật đó là:
- Thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh
vực của đời sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự
do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế;
- Sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành
để bảo đảm Bộ luật Dân sự thực sự phát huy được ba vai trò cơ bản đó là: (i)
Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
dân sự của các các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền, lợi
ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa
sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các
quan hệ dân sự; (ii) Tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh,
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định
trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; (iii) Là công cụ pháp lý hữu hiệu để thúc đẩy sự hình thành và
phát triển các thiết chế dân chủ trong xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng Bộ luật Dân sự thành bộ luật nền, có
vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ
được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự
chịu trách nhiệm; có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt,
bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển
thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự; bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực
tiễn của pháp luật dân sự, cũng như các giá trị văn hóa, tập quán, truyền thống
đạo đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng Bộ luật Dân
sự của một số nước, nhất là các nước có truyền thống pháp luật tương đồng với
Việt Nam.
_________________________________
Bài
của Ngô Lê Lợi Tổ dân phố 33
–Phường
Trung Hòa-Quân Cầu Giấy-Hà Nội