ẢNH CHỤP GIA ĐÌNH 21/12/2012

THẦY PHONG THỦY-TỬ VI-TRẠCH CÁT


NHẬN TƯ VẤN: phong thủy-Tử vi và xem ngày tốt xấu các việc::
+Phong thủy Dương trạch và Âm trach. Dương trạch tư vấn Nhà ở; Công trình; Văn phòng; bếp nấu; phòng thờ; phòng ngủ; phòng tắm... hợp phong thủy. Âm trạch tư vấn đặt mộ, lấy hướng trong nghĩa trang hoặc khu mộ gia đình.
+Chọn ngày Tốt các công việc: Xem tuổi xây nhà, sửa nhà; chọn ngày tốt để khởi công, động thổ; nhập trạch. Xem ngày khai trương.Xem tuổi lấy chồng, lấy vợ. Xem ngày cưới, ăn hỏi. Mua sắm ô tô và xe máy.
+Đặt tên cho con; Chọn năm để sinh con. Chọn số, biển số đẹp cho: ô tô; xe máy; điện thoại. Chọn màu sắc hợp tuổi và bản mệnh.
Xem Tử vi: Dự đoán vận mệnh cuộc đời-Dự đoán năm lấy vợ, lấy chồng. Đại tiểu vận làm ăn tốt; Dự báo tang ma, ốm đau, vận hạn và Hóa giải đề cuộc sống tốt đẹp hơn.



Thứ Ba, 13 tháng 3, 2018

Ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình


Ngô Đình Diệm (thứ hai từ trái sang) cùng gia quyến

(Ảnh: Dòng họ Ngô Đình: (Ảnh  năm 1963, từ trái sang)  Ngô Đình Nhu, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, em gái tổng thống Diệm, bà mẹ (ngồi), Trần Lệ Xuân,  Ngô Đình Cẩn. Hàng con cháu: Trác, Quỳnh, Lệ Quyên, Lệ Thủy).

Khỏang cuối thế kỷ 19 đời vua Tự Đức tại làng Đại Phong (tục danh Đợi), huyện Phong Lộc (sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình, có một nông dân đến ngụ cư trong làng,...vợ chết sớm, chỉ có một cậu con trai nhỏ độ 6 tuổi, hằng ngày làm mướn sinh sống. Ban hội tề ở đình làng này cắt cử ông đến phục dịch ở đình làng mỗi khi có hội họp hoặc tế lể.
Sau đó, trong một cơn bệnh nặng, ông qua đời, được ban hội tề làng cử 4 dân đinh đưa thi hài ống đến an táng lại “Bến Đẻ” một vùng rừng núi ngược dòng sông Kiến Giang cách làng Đại Phong độ 3 cây số.
Vì mới đến ngụ cư, không có địa vị trong làng, không thân thuộc, lại quá nghèo, nên công việc tổ chức mai táng cũng chỉ đơn sơ và vội vàng.

Ngôi mộ
Khi 4 dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông đến “Bến Đẻ” thì trời đã về chiều, mà nơi này có tiếng nhiều cọp, nên khi dân đinh đang khiêng thi hài ông từ bến đậu thuyền tiến vào núi, bỗng có nhiều tiếng cọp gầm gừ quanh vùng. Dân đinh sợ quá vội hạ xuống cùng nhau hối hả đào một huyệt cạnh đường mòn, nhưng đào chưa xong thì tiếng gầm thét của chúa sơn lâm càng rền vang đâu đó, 4 dân đinh khiếp đảm liền đặt thi hài ông xuống huyệt còn quá cạn rồi lấp đất qua loa, đọan vội vã cùng nhau co giò chạy về bến xuống thuyền chèo về nhà, định bụng sáng hôm sau sẽ trở lại sửa sang lại chu đáo hơn kẻo tội nghiệp người quá cố.
Qua hôm sau, số dân đinh này chèo thuyền trở lại, thì lạ thay, ngôi mộ chiều hôm trước mới lấp qua loa chưa thành nấm, nay đã hóa thành một gò đất tròn trịa do mối tạo lên lớn bằng một căn nhà. Các bậc lão thành trong làng và lân cận nghe tin, lũ lượt đến xem và đều cho là ngôi mộ thiên táng.
Nhưng rồi câu chuyện cũng theo thời gian đi và quên lãng, không ai lưu tâm bàn tán gì đến nữa. Mỗi lần ai đi ngang qua ngôi mộ này cũng không còn để ý đến một gò đất cây cỏ um tùm vì không người viếng thăm săn sóc từ năm này qua năm khác.

Cụ Ngô Đình Khả
Ông cụ qua đời, để lại cậu con trai côi cút mới lên 8, mặt mũi rất khôi ngô dĩnh ngộ, nên được vị cố đạo Thiên Chúa ở xứ đạo Mỹ Phước cạnh làng Đại Phong nhận đem về nuôi cho ăn học. Cậu bé đó là cụ Ngô Đình Khả sau này đó.
Sau này, cậu bé được cho ra Hà Nội học, thi đậu tốt nghiệp trường thông ngôn Đông Pháp, được bổ làm thông phán tại tòa Thống sứ Bắc Kỳ tại Hà Nội (trường này giống học viện hành chánh bây giờ).
Theo thông lệ xưa, hễ ai được nhà nước bảo hộ hay Nam triều bộ nhậm chức tước gì thì đều được nhà nước, thông tư về nguyên quán và ban hội tề làng phải tổ chức lên tỉnh rước sắc bằng về làng, nhằm làm tăng vinh dự cho người được bổ nhậm, thường gọi là “tư án quán”. Tại làng, người nào có phẩm hàm cao thì được làng cấp phần ruộng tốt giao cho thanh nhân canh tác.
Nhưng khi được nhà nước bảo hộ ở Hà Nội tư án quán, tòa công sứ và dinh tuần vũ tỉnh Quảng Bình báo cho làng Đại Phong lên tỉnh rước sắc bằng cụ Khả, thì ban hội tề làng này từ khước viện lý do làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả cả, bởi vì nếu nhận có, tất cụ Ngô Đình Khả sẽ là vị tiên chỉ của làng này, trong khi làng này chỉ có những quan nhỏ cửu, bát phẩm mà thôi. Do sự khước từ trên, cu Ngô Đình Khả giận làng Đại Phong, sau đó cụ kết hôn với một thiếu nữ trâm anh ở làng Phú Cam gần kinh đô Huế và nhận làm công dân của làng này. Sau này cụ Ngô Đình Khả chuyển cái ngạch Nam triều rồi lần lượt thăng tiến trên đường họan lộ, đến triều vua Thành Thái ngài thăng chức Thượng thơ bộ Học, Hiệp ta Đại học sĩ. Dân làng Đại Phong lúc bấy giờ hối tiếc việc không thừa tiếp một công dân anh tài vẻ vang cho làng xóm, nên đã cùng nhau vào Huế xin tạ lỗi và thỉnh cầu được tiếp nhận cụ về làng, được cụ chấp thuận. từ đó, cụ là công dân làng Đại Phong. Cụ đã góp công xây dựng ngôi đình làng Đợi to lớn và ngôi nhà thờ nguy nga hiện nay vẫn còn.

Gái và trai
Cụ Ngô Đình Khả sinh được 2 gái và 6 trai: hai gái là bà cụ Cả Lễ và bà cụ Ấm, 6 trai là cụ nguyên tổng đốc tỉnh Quảng Nam Ngô Đình Khôi, Đức tổng Giám mục Ngô đình Thục, nguyên tổng thống đệ nhứt Tổng thống Ngô Đình Diệm, nguyên cố vấn Ngô Đình Nhu, nguyên đại sứ VNCH tại Anh quốc Ngô Đình Luyện và nguyên cố vấn cao nguyên trung nguyên Trung phần Ngô Đình Cẩn.

Năm 1936, cụ bà Ngô Đình Khả cùng các con gồm các ông Ngô Đình Khôi, Đức cha Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn (vắng mặt ông Ngô Đình Luyện có lẽ du học ngọai quốc) về làng Đại Phong thăm làng. Trước khi về làng, cụ bà và các con đến Bến Đẻ viếng mộ cọ cố Tam Đại Tổ.

Chạm long mạch
Năm 1938, ông Paul Ngọc, một nhà kinh doanh khai khẩn đất hoang nguyên quán Đồng Hới được phép khai khẩn đồn điền Ba Canh (tả ngạn sông Kiến Giang song song với vùng núi Bến Đẻ, Bến Trấm), ông này vô tình cho đào một con mương dẫn nước vào đồn điền để canh tác đã chạm phải long mạch của ngôi mộ thiên táng của nhà họ Ngô Đình kể trên và tai nạn đã đưa đến nho nhà họ Ngô là:
- Thượng thơ bộ Lại của triều đình Huế Ngô Đình Diệm bị hòang đế Bảo Đại cất chức thượng thơ thu hồi tất cả phẩm trật và huy chương vì đã chống đối lệnh hòang đế.
- Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi phải bị rắc rối một thời gian vì đã chống đối gây sự bất hòa với viên phó tòan quyền Đông Pháp Nouailletas.
Năm 1944, ông Paul Ngọc được chuyên viên canh nông Nhật bổn yểm trợ khuếch trương đào các con kinh dẩn thủy trong đồn điền Ba Canh của ông, vô tình đã chạm vào long mạch của ngôi mộ kể trên, nên lại một lần nữa gây đại nạn cho nhà họ Ngô là:
- Ông Ngô Đình Khôi và con trai đầu lòng là Ngô Đình Huân bị chính quyền VM bắt và thủ tiêu sau cuộc cách mạng mùa thu 1945.
- Ông Ngô Đình Diệm cũng bị chính quyền VM bắt giam nhưng đã trốn thóat bôn đào ra ngọai quốc.

Hàn lại long mạch
Nhưng nhờ thời gian Đồng minh đánh Nhật và VN chống Pháp, mọi công tác tại đồn điền này đều phải đình chỉ, các kinh đào dẫn thủy nhờ thời gian qua đã lấp lại hết. Long mạch đã được hàn gắn lại nên vận số nhà họ Ngô lại phục hưng bột phát hơn trước:
- Tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh rồi trở thành vị tổng thống sáng lập nền đệ nhất cộng hòa VN.
- Cùng lúc, bào đệ là ông Ngô Đình Nhu nắm giữ chức cố vấn nòng cốt của chế độ, ông Ngô Đình Luyện giữ chức đại sứ VNCH tại Anh Quốc, ông Ngô Đình Cẩn trở nên vị lãnh chúa của miền Trung. Còn Đức Cha Ngô Đình Thục lên chức Tổng Giám Mục và có thể sẽ là vị Hồng Y đầu tiên của Công Giáo tại VNCH.

Lại chạm Long Mạch
Nhưng vào khỏang năm 1960-1962, chế độ miền Bắc bắt đầu đặt nặng công cuộc yểm trợ tận lực cho Mặt trận Giải Phóng miền Nam được Trung Quốc  viện trợ xây đắp xa lộ từ Bắc vào Đồng Hới qua Hậu Hùng, Mỹ Đức đến vùng đồn điền Ba Canh tiến sát vĩ tuyến 17 và vùng Ba Canh trở thành căn cứ sản xuất và bổ túc vủ khí để chuyển vào Nam. Họ đào những đường hầm sâu để đặt cơ xưởng dưới lòng đất hầu tránh oanh kích đã làm đứt hẳn long mạch của ngôi mộ thiên táng nhà họ Ngô tại Bến Đẻ. Sự kiện này đưa đến đại nạn cho tòan thể gia đình họ Ngô Đình vào mùa đông năm 1963 như chúng ta đã rõ.Âu cũng là do thiên định cho sự kết phát của ngôi mộ kể trên phải chịu trong giai đọan đại biến này thôi. Rồi nếu hồng phúc của nhà họ Ngô Đình trời còn dành cho phần trường cửu hơn, thì biết đâu sau này lại có những sự kiện đưa đến hàn gắn lại long mạch để lớp hậu duệ nhà họ Ngô Đình tái phục hưng vĩ đại hơn nữa.
Về phương diện phong thủy, phải chăng ngôi mộ kể trên đã chung tú bới non sông hùng vĩ của huyện Lệ Thủy từ phía Nam có 3 hòn núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ và phía Tây có núi Đầu Mâu chung khí về biển Hạc Hải ờ phía Đông Bắc trải long mạch dựa theo sông Kiến Giang ngược lên Tróc Vực quy tụ vào ngôi mộ này kết phát đến tột đỉnh, Đế, Bá, Công, Hầu chăng ?
Kẻ viết giai thọai này chỉ là kẻ hậu sinh, nhờ được sinh sống ở quê hương từ thuở thiếu thời, được các bậc tiền bối truyền thọai lại mà thôi. Nay xin viết lại để mong chư hải nội tiền bối nhất là liệt quý vị cao niên đồng hương hiện ờ Miền Nam phủ chính lại cho, hầu xây dựng đích thực một sử liệu không những chỉ ở lãnh vực địa lý mà cả cho danh nhân chí của Việt Nam nữa ./. (ST trên mạng)




Thứ Hai, 12 tháng 3, 2018

Bí ẩn về ngôi mộ và số phận NGÔ ĐÌNH DIỆM

Sông Kiến Giang, đoạn ngang qua ngôi mộ cụ Dinh(ông nội Ngô Đình Diệm)

Ngôi mộ đó được thiên táng (đã viết trong bài Lệ Thủy địa linh, nhân kiệt). Thực ra khi đó chẳng ai để ý, lâu ngày cây cỏ um tùm trông như một gò đất to. Đất An Mã xưa rất lạ, mặc dầu không cằn cỗi (vì bây giờ người ta trồng rừng, cây lên thành cổ thụ) nhưng ở đây chỉ mọc một thứ cỏ gianh xanh mướt suốt từ chân lên đến đỉnh. Mỗi khi gió thổi, sóng cỏ đuổi nhau chạy lao xao từ chân núi lên. Cứ như ngàn vạn bước chân chạy lên trời vậy. Mãi đến sau này, vào năm 1936 bà Ngô Đình Khả dẫn các con Ngô Đình Thục, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn về làng Đại Phong thăm quê hương, cúng tế, sửa sang cho ngôi mộ thì mọi người mới để ý đến. Lúc đó ông Ngô Đình Diệm đã được Bảo Đai bổ làm Thượng thư bộ Lại được 3 năm.

Ông Ngô Đình Khả, từ ngày đỗ đạt không về làng, chắc là vì lời nguyền năm xưa. Khi ông đỗ đạt, triều đình cho thông tư về làng báo lên tỉnh rước sắc bằng. Song các bô lão làng Đại Phong không nhận. Lý do là trong sổ đinh làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả. Chuyện này chắc cũng có lý, vì khi ông Ngô Đình Dinh (bố ông Khả) mất, ông Khả mới 6 tuổi và được cha đạo ở làng Mỹ Phước, Đại Phong nhận nuôi, sau đó cho ra Hà Nội học rồi về làm việc trong triều đình Huế. Vì chuyện này mà ông Khả giận làng Đại Phong, thề sẻ không về làng và nhận làm con dân làng Phủ Cam, Huế. Sau này, khi hiểu ra, làng Đại Phong có cử các bô lão vào Huế xin lỗi. Ông Khả thông cảm và có đóng góp tiền để dựng lại đình làng và xây nhà thờ Tây Hạ.

Xung quanh ngôi mộ đó có rất nhiều giai thoại về câu chuyện chạm long mạch làm họ Ngô khốn đốn! Thực hư không biết thế nào, nhưng mấy tháng trước (2010) khi hầu chuyện một vị sư già trong đoàn chư tăng về làm lễ cầu siêu cho Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (chôn gần đó), nhà sư nói rằng: “Âm phần ở đây còn vượng khí lắm, chí ít cũng sinh công hầu, khanh tướng, chỉ tiếc một điều… cái điều đó tôi chưa thể nói ra, nhưng khi hóng chuyện thấy rằng: Long mạch An Mã xứ Lệ linh thiêng quá, nên gom lại những sự kiện dược cho là chạm long mạch ngôi mộ họ Ngô để kiểm chứng.

Lần chạm long mạch thứ nhất, đấy là vào năm 1939. Khi đó một nhà tư sản lúa gạo, người Đồng Hới, có cái tên rất Pháp là Paul Ngọc, chẳng hiểu lý do gì đã bỏ tiền mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An Mã để canh tác. Thực ra, Ba Canh không phải vùng màu mỡ để sản xuất lúa gạo. Để canh tác, ông Ngọc đã cho đào mương dẫn thủy. Vì vậy, chạm long mạch. Lần chạm này đã dẫn đến tai vạ: Thượng thư Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức vì trái mệnh triều đình. Thực ra ông Diệm phải chịu cái tội “giời ơi” vì ông chủ trương cải cách quản lý để giảm bớt sự lộng hành của người Pháp. Người Pháp muốn chia làm 3 Kỳ, Bắc, Trung Nam và chỉ để cho triều đình có toàn quyền ở Trung kỳ thôi, ông Diệm chống lại điều này. Triều đình không thuận, ông từ chức. Việc cách chức của triều đình chỉ là chữa thẹn mà thôi. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi – anh ruột ông Diệm, đang làm Tổng đốc Quảng Nam bị viên phó toàn quyền Đông Pháp Nouailletas gây khó dễ. May thay, thời kỳ này, chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã làm công cuộc khai phá Ba Canh ngừng lại. Họ Ngô tạm yên ổn.

Lần chạm long mạch thứ 2, đấy là vào năm 1944. Khi đó người Nhật chiếm Đông Dương. Được sự giúp đỡ của một chuyên gia canh nông người Nhật, ông Paul Ngọc lại khai phá Ba Canh. Lại đào kênh dẫn thủy, lại chạm long mạch. Lần này xem ra tệ hơn, nên đã gây đại họa cho dòng họ Ngô. Ông Ngô Đình Khôi, tổng đốc Quảng Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị những người kháng chiến bắt thủ tiêu. Ông Ngô Đình Diệm cũng bị Việt Minh bắt. Nghe nói, khi ông Diệm bị bắt, cụ Hồ, với chính sách mặt trận của mình, có gặp và thuyết phục ông Diệm tham gia chính phủ lâm thời, nhưng ông Diệm từ chối. Lý do ông Diệm từ chối là ông trách người Việt Minh đã giết anh và cháu ông. Thực ra, ông Khôi chết cũng đáng, vì ông Khôi khét tiếng độc ác. Khi là Tổng đốc Quảng Nam, mỗi lần bắt được cộng sản nằm vùng, ông tra tấn rất dã man. Ngón đòn ông đắc ý nhất là dùng lửa đốt hậu môn kẻ tình nghi. Chúng ta có thể tin rằng việc giết ông Khôi không phải lệnh từ trên, mà do cơ sở tự làm vì quá phẫn nộ. Bằng chứng là khi bắt được Ngô Đình Diệm rồi, cụ Hồ đã gặp ông tại một ngôi nhà ở phố Hàng Trống (Nay là trụ sở báo Hà Nội Mới) thuyết phục không được đã thả tự do cho ông. Sau đó, vào năm 1951, ông Diệm trốn sang Mỹ, ở New Jesey vận động đôc lập cho Việt Nam. Còn ông Ngô Đình Nhu bấy giờ cũng đã được ông Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ chính quyền Cách mạng, ký sắc lệnh số 21 ngày 8-9-1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha lưu trữ công văn và thư viện toàn quốc. Nhưng ông Nhu từ chối không đến nhiệm sở (Tư liệu này mới đây đã được công bố ở Viện lưu trữ Quốc gia).

May thay, cách mạng tháng Tám thành công, rồi kháng chiến chống Pháp, làm sự nghiệp khai hoang của ông Ngọc bị bỏ dở. Ngày tháng trôi đi, vết thương long mạch được hàn gắn, họ Ngô lại phục hồi, hưng vượng. Năm 1954, ông Diệm được Bảo Đại mời về làm Thủ tướng. Một năm sau, trong cuộc trưng cầu ý dân, ông lên làm Tổng thống chính thể đầu tiên của VNCH. Cùng với đó, ông bổ nhiệm các em mình vào các vị trí cốt tử. Ngô Đình Nhu làm cố vấn đặc biệt, Ngô Đình Luyện làm đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn lãnh chúa Tây Nguyên. Còn ông Ngô Đình Thục trở thành Tổng giám mục chăn dắt hàng triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo.

Lần chạm long mạch thứ ba đã tuyệt diệt dòng họ Ngô Đình. Lần này có rất nhiều giai thoại rất bí ẩn. Nguời ta nói rằng, lần này là do bộ đội đào hầm hào, mở đường, chuẩn bị chống chiến tranh mà Ngô tổng thống hô hào “Lấp song Bến Hải, Bắc Tiến”. Người ta còn nói, việc đào hầm hào ở đây là có tính toán trước, và được ngụy trang bằng Phong trào xây dựng lá cờ đầu nông nghiệp Đại Phong. HTX này đã đưa người lên khai hoang Bến Tiến, dưới chân An Mã, đào kênh đẫn thủy, chạm long mạch. Cùng lúc đó còn có một tiểu đoàn bộ đội đào hầm hào ở chân đồi An Mã. Sau 100 ngày đào bới làm đứt long mạch, gia đình họ Ngô tuyệt mệnh, anh em Diệm, Nhu bị quân đảo chính bắn chết. Cho đến tận ngày nay, những con hào giao thông đó vẫn còn, nó chỉ cách chỗ ngôi mọ và mét. Người dân bản xứ nói rằng, có một hầm ngầm rất lớn ở khu vực đó. Thời đó, dân Đại Phong mỗi lần đi khai hoang đều xuất phát từ đình làng, chèo thuyền đi vào ban đêm. Có lần tướng Nguyễn Chí Thanh đi cùng, hò khoan, hò hụi rất vui vẻ. Có giai thoại nói rằng, trong đoàn đi ấy có một thầy địa lý gầy gò mặc chiếc áo rộng thùng thình, đội cái mũ sụp xuống đi cùng tướng Thanh. Một số người đoán đó là ông Cả Đạt, một thầy địa lý cao thủ của xứ Nghệ. Nhưng chắc không phải, vì ông Cả Đạt mất trước năm 1963. Có lẽ vì ông là người được ví như Cao Biền của xứ Nghệ nên nguời ta đoán già, đoán non vậy thôi.

Có người nói rằng, những năm đó, với sự giúp đỡ của nguời Tàu, Việt Nam đã mở đường Trường Sơn vào Nam để tiếp tế cho chiến trường. Trong đó có việc định xây dựng các công binh xưởng ở Ba Canh, An Mã để sản xuất vũ khí tại chỗ. Vì vậy, xây dựng Đại Phong chỉ là cái cớ ngụy trang mà thôi. Ai lại đi cử một ông đại tướng đi làm nông nghiệp. Khai hoang Bến Tiến chỉ cho sản phẩm là sắn. Vả lại, đất đồng bằng sông Hồng thiếu gì nơi màu mỡ mà vào tận cái vùng “khỉ ho, cò gáy”, “cóc đái một bãi là ngập lụt” ấy để xây dựng là cờ đầu nông nghiệp (Điều này và câu chyện công binh xưởng, theo tôi là có lí). Có người nói, chọn Đại Phong là một đòn chính trị vì Đại Phong là quê hương ông Diệm. Những năm đó, ông Diệm cứ hô hào “Lấp sông Bến Hải, Bắc tiến”. Xây dựng Đại Phong là để nói với ông Diệm rằng: quên hương ông đang giàu lên nhờ cách mạng, cớ sao ông định đem xe tăng ra càn lúa. Cái lí do này để che đậy câu chuyện công binh xưởng.

Chẳng biết mô tê gì, nhưng thời đó dân Đại Phong sướng thiệt, thóc lúa ăn không hết gửi kho HTX.

Thôi thì lắm thầy nhiều ma, sự thật vẫn là sự thật. Tôi đã đọc trong "Ô Châu cận lục" của Dương Văn An, bản dịch của cụ Bùi Lương, do nhà Văn hóa Á châu xuất bản năm 1961, phần Địa Lý ở trang 42 có ghi "huyện Nha Nghi có 80 huyệt". Đây là các huyệt đạo mà các thầy địa lý xác định, có điều các bản dịch sau này cho đó là mê tính nên lược đi. Công cuộc khai hoang bến Tiến là có thật, giờ là nông trường Đại Giang. Thậm chí là địa danh trong bài Quảng Bình ca “có ai về Đại Phong, Xin vô ghé thăm vùng Bến Tiến”. Núi an Mã còn đó, với những hầm hào lở loét quanh mình. Trong chiến tranh, người ta còn lùa trâu bò vô những hầm ngầm kiên cố bằng bê tông để tránh bom Mỹ. HTX Đại Phong sau năm 1963 thì cũng “lặng gió”. Ông Nguyễn Ngọc Ánh, chủ nhiệm đầu tiên được phong anh hùng lao động rồi điều lên huyện. Người kế nhiệm là ông Đặng Ngọc Đính, năm nay đã 82 tuổi, 60 tuổi đảng, còn đó làm nhân chứng sống. Ông vẫn lặng lẽ cứ đến ngày sóc, vọng thắp hương cho tướng Nguyễn Chí Thanh tại gian thờ trên tầng 2 nhà văn hóa làng. Gia đình họ Ngô nghe đâu còn bà Trần Lệ Xuân (vợ ông Nhu) sống một mình trong một căn hộ gần tháp Effen bên Pháp. Ông Ngô Đình Trác là kỹ sư canh nông lấy vợ người Ý, có 3 trai, 1 gái. Ông Ngô Đình Quỳnh thì không lấy vợ sống tại Bỉ. Cô út Ngô Đình Lệ Quyên, tiến sỹ luật, lấy chồng ở Ý.

Ngôi mộ kết phát đế vương của dòng họ Ngô ở Bến Kéc, An Mã giờ chỉ còn dấu tích là một khóm tre gai và một ít gạch đá bị đập vỡ vụn. Vây quanh là các khu mộ của họ Võ, họ Trần. Khi tôi tìm vào đến đây, đường hào giao thông phía trước mộ vẫn còn, dân bản địa nói chỗ gạch đá ấy là cây thập tự còn lại cuối cùng bị trẻ chăn trâu đập phá?

 Tổng thống bị phế?

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Tổng Thống nền Cộng Hòa đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm cùng với bào đệ là Cố Vấn Tổng Thống Ngô Đình Nhu bị giết tại Sài Gòn trong một cuộc đảo chính. Đây cũng là khoảnh khắc khép lại thời vàng son của dòng họ Ngô Đình. Và đây cũng là thời điểm mà cố hương của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm gặp nhiều nguy biến nhất. Có thể nói rằng số phận lênh đênh của dòng họ xuất chúng này vẫn chưa bao giờ ngừng.

Cố hương vời vợi…
Một người tên Hàm, sống ở Lệ Thủy, Quảng Bình, chia sẻ: “Ông đầu tiên học trường thuộc địa, gọi là trường Hậu Bổ, sau đó ra làm quan Tuần Vũ, cũng như tỉnh trưởng vậy đó. Sau đó nhờ tài năng ông được rút về trung ương, tức triều đình Huế. Sau đó đụng chạm với Phạm Quỳnh, đụng phải sự cố chấp, không chịu canh tân, ông từ quan. Sau đó nữa ông âm thầm hoạt động cách mạng độc lập, để có nền Việt nam Cộng Hòa sau này là nhờ ông biết hoạt động độc lập...”.

Theo cụ Hàm, quê gốc của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm không phải ở làng Đại Phong, xã Phong Thủy, Lệ Thủy, mà là ở phủ Xuân Dục, Quảng Bình. Cụ Ngô Đình Dinh, ông nội của Tổng Thống Diệm là một con chiên mộ đạo. Do tránh nạn tiêu diệt Ki-Tô giáo của triều đình Huế, cụ đã trốn vào làng Đại Phong, Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình để sống.

Ban đầu cụ làm nghề chèo đò, nấu nước trà cho làng mỗi khi có lễ lạc. Bởi quan niệm dân gốc và dân trú thời đó nên cụ gặp rất nhiều khó khăn, sống trong nghèo khổ, bần hàn. Cụ sinh được một người con là Ngô Đình Khả, chính là thân sinh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau này. Cụ Dinh mất sớm do bệnh tật, lúc đó, Ngô Đình Khả là đứa bé sáu tuổi. Một vị linh mục người Pháp mang Ngô Đình Khả về nuôi và cho học hành tử tế. Vốn có tư chất thông minh, Ngô Đình Khả nhanh chóng thăng tiến sau này nhờ vào học hành.

Với đời vợ cả, cụ Ngô Đình Khả sinh ra được hai người con trai là Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục. Sau khi vợ cả qua đời, cụ Khả tái hôn với bà Phạm Thị Thân, sinh ra sáu người con là Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện, Ngô Đình Thị Giáo và Ngô Đình Thị Hiệp.

Với gia thế làm quan kể từ sau giai đoạn khó khăn của ông nội Ngô Đình Dinh, có thể nói rằng đến thời cụ Ngô Đình Diệm là thời phát tiết của tộc Ngô. Cụ nổi tiếng là người học giỏi, cụ được Pháp đưa sang mẫu quốc để du học nhưng cụ không chịu đi để giữ khí tiết chống thực dân đô hộ, cụ ra Hà Nội để học Hành chính quốc gia, còn gọi là trường Hậu Bổ. Năm 1921, cụ tốt nghiệp trường Hậu Bổ và về làm quan tại Huế. Thời kì làm quan của cụ là thời kì mà nhân dân địa phương được sống sung túc nhất dưới sự dẫn dắt của cụ.

Cụ tổ chức đào kênh, đắp đường lộ, làm nhiều việc có lợi cho dân. Sau nhiều biến thiên lịch sử, cụ phải trốn sang nhiều nơi, thậm chí nhiều nước. Và đến năm 1954, cụ làm Thủ tướng dưới quyền của Quốc trưởng Bảo Đại. Mười năm sau, năm 1955, nền Cộng Hòa đầu tiên của Việt Nam ra đời dưới sự dẫn dắt của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Cuối năm 1955, cụ Diệm làm Quốc Trưởng và sau này đổi thành danh xưng Tổng Thống cho đến tháng 11 năm 1963.

Ông Hàm cho rằng cái chết và sự lưu vong của gia đình họ Ngô là do một thủ đoạn tính toán về phong thủy. Bởi lúc đó, Quảng Bình nằm phía Bắc vĩ tuyến 17, thuộc lãnh địa của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nghiệt nỗi, mộ cụ nội của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn nằm trên đất Đại Phong, Phong Thủy, Quảng Bình. Mà theo lời của một nhà chiêm tinh có uy tín lúc bấy giờ thì đất Lệ Thủy sinh ra bậc kỳ tài, ứng vào tộc Ngô và tộc Võ.

Sông Kiến Giang, đoạn ngang qua ngôi mộ cụ Dinh. RFA photo Sông Kiến Giang, đoạn ngang qua ngôi mộ cụ Dinh. RFA photo

Nếu giữ bậc hiền tài tộc Ngô thì khí vận của nhân tài tộc Võ không đủ để lay chuyển thời vận. Và người ta đã nhắm đến mộ của cụ Ngô Đình Dinh, ông nội cụ Ngô Đình Diệm để phá phách, trấn yểm. Việc trấn yểm, phá phách này kéo dài gần chục năm, cho đến khi ngôi mộ của cụ Dinh bị phá tan hoang cũng là lúc Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị ám sát.

Hiện tại, không còn dấu vết nào của dòng họ nhà Ngô Đình trên đất Đại Phong, Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình. Mặc dù trong quá trình di cư, vẫn còn nhiều người họ hàng của tộc Ngô Đình sống lại làng Đại Phong nhưng đã đổi thành một họ khác như Trần, Lê. Sau biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963, những người họ hàng này lại một lần nữa rời bỏ quê hương, sống lưu vong.

Dấu xưa không còn và ngôi mộ thiên táng

Cụ Hải, sống ở Đại Phong, Lệ Thủy, Quảng Bình, chia sẻ: “Nhà ông Giáp và ông Diệm gần nhau. Rõ ràng ông Diệm phải giỏi ngang ngửa với ông Giáp mới đấu nổi với nhau chứ. Nhưng do người ta giết hại ông Diệm nên đành vậy thôi.”.

Theo cụ Hải, lúc cụ Ngô Đình Dinh, tức ông nội của Tổng thống Ngô đình Diệm qua đời, vì gia cảnh nghèo khó, vợ chết sớm, chỉ có một con trai nhỏ là Ngô Đình Khả mới sáu tuổi. Hai cha con sống lây lất qua ngày bằng việc chèo đó thuê ban ngày và ngủ nhờ đình làng ban đêm. Khi cụ Dinh mất, dân làng thương tình mua áo quan khâm liệm và chèo thuyền đưa thi hài ông dọc theo sông Kiến Giang, đến núi Bến Đẻ để an táng.

Nhưng đi nửa đường thì trời đổ mưa, nghe tiếng cọp gầm, dân làng sợ quá đào qua loa một huyệt bên đường lên núi để chôn tạm rồi sáng mai tiếp tục an táng. Đang đào thì cọp gầm gần quá, người dân hoảng hốt lấp vội đất và bỏ chạy. Sáng mai, bà con lại bơi ghe lên chỗ huyệt mộ để lấp đất cho tử tế. Nhưng khi đến nơi thì thấy một gò đất tròn, cao đã phủ trên ngôi mộ. Gò đất này do mối đụn lên mà tạo thành. Người làng kháo nhau ngôi mộ được thiên táng, tức trời chôn, đời sau sẽ phát tích. Và chuyện này đã thành sự thật.

Cùng lúc đó, bên khu nhà thờ làng tộc Võ, một cây dừa bị bão đánh đã lâu, từ thân khô của nó mọc ra hai nhánh và phát triển rất nhanh. Tin đồn về khí vận ở Lệ Thủy đang phát tiết lan rộng. Trong đó, ngôi mộ thiên táng của tộc Ngô được cho là tụ khí hơn khu nhà thờ làng có cây dừa mọc đôi của tộc Võ.

Đến những năm 1950, công cuộc đào phá long mạch mộ tộc Ngô bắt đầu nhưng không có tác dụng. Đến năm 1961, một đường hầm đào xuyên qua trước ngôi mộ, gọi là công sự để chế tạo vũ khí nhưng thực chất chưa bao giờ có vũ khí nào chế tạo ở đây.

Sau đó một thời gian, các đường công sự đào ngang đào dọc và ngôi mộ cũng tự dưng biến mất. Cuối cùng là cái chết thương tâm của gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm và cuộc đời tứ tán của dòng họ Ngô. Dấu vết xưa của dòng họ Ngô trên đất Lệ Thủy, Quảng Bình cũng không còn.

Theo như chia sẻ của cụ Hải thì khi mà khí vận của đất Lệ Thủy bị tuyệt, từ đó đến giờ, đời sống khó khăn, người đỗ đạt cao một cách nghiêm túc rất hiếm và niềm tự hào của người dân về gia tộc họ Ngô cũng bị triệt tiêu một cách đáng sợ. Nhưng cụ Hải cũng khẳng định rằng nếu chọn một điều gì đó để nói về quê hương mình, ông sẽ chọn gia tộc họ Ngô bởi đây là một gia tộc đi từ nghèo khổ đến đỗ đạt và cống hiến cho dân tộc này rất nhiều. (ST trên mạng)