PHẦN I
1. Mở Đầu
Đa số chúng ta ngày nay
hầu
như không
còn biết
bố thí,
cúng dường một
cách
trong sạch
và
lợi ích nữa!
Bố thí là
bố thí chứ có gì mà
trong sạch với
không trong sạch? Nói như vậy không phải là Phật tử!
Nếu không phải
Phật tử thì muốn nói sao cũng được, nhưng
nếu là con Phật thì
cần phải
học đạo, hiểu
đến nơi đến chốn. Có nhiều người trong
chúng ta thường
hãnh diện nói rằng: 'Tôi tu lâu,
ăn chay trường,
tụng kinh mấy chục
năm rồi, biết
Hòa Thượng
này
Hòa Thượng
nọ từ lúc các vị ấy mới tu, chùa này là do tôi giúp từ lúc mới lập,..., và
đa số đều là
Bồ Tát tại gia (tức
là thọ
Bồ Tát giới).
Thọ
Bồ Tát giới
tức là muốn bước trên
Bồ
Tát đạo; và
Bồ
Tát đạo thì
gồm
có Lục độ
(
Ba La Mật).
Trong đó thì
Bố thí
đứng đầu.
Bồ Tát mà không biết
bố thí thì đó
không phải là
Bồ Tát.
Vậy
Bố thí là
gì? Có mấy loại Bố thí? Phải
Bố
thí những gì:
Bố
thí làm sao, khi nào,...?
Trước khi
đi vào
giải đáp xin
đọc giả phá bỏ
thành kiến
sai lầm xưa nay, cho rằng
Bố thí là đem tiền
cúng chùa, cúng Thầy, đó chỉ là một
hình thức nhỏ của sự
Bố thí. Không những
Phật tử tại gia hiểu lầm mà ngay cả
giới
xuất gia
cũng
lơ là
hay
cố ý chỉ
muốn dạy cho
Phật tử
sự
Bố thí đó
mà thôi, nên luôn luôn kêu gọi
Phật
tử phát tâm
Bồ Tát (phát
tài) cúng chùa,
cúng Phật...
Riết rồi
Phật tử
không dám đến chùa nữa, vì sợ đến thì phải cúng,
nếu không cúng thì sợ tội, nên hay hơn hết
là ở nhà cho xong. Đó là nói người biết sợ tội phước, còn có những người học
Phật mà bất chấp tội phước, hoặc quá
si mê, là những người hay đi
rêu rao chùa này nhiều tiền, chùa kia ít
tiền, Thầy này giàu, Thầy kia nghèo,... Nói cho sướng cái miệng mà đâu có hay
là mình đang tạo
khẩu nghiệp,
đó là chưa kể đã phạm vào các giới trọng, giới khinh của
Bồ Tát.
Chùa là gì? Tại sao phải đến chùa? Là
Phật tử,
chúng ta ai cũng biết rõ
lịch sử của
đức Phật Thích Ca, biết
Tứ Diệu Đế, biết đời là khổ, biết
quay về nương tựa
nơi
Tam Bảo (Phật,
Pháp, Tăng). Chùa là nơi
tượng
trưng cho
Tam
Bảo, nhưng nơi nào chỉ có
tượng Phật và kinh sách thôi mà không có
chư Tăng thì không được
gọi là
Tam Bảo;
và đúng lý ra thì chùa phải là nơi thoát tục của
người trần tục. Khi bước chân vào một ngôi chùa,
với không khí thoảng mùi hương thơm, với
tiếng chuông tiếng mõ, ta sẽ
cảm thấy tất cả những
ưu phiền, bon chen
của cuộc sống bên ngoài lắng xuống và
tâm hồn ta trở nên lâng lâng thoát tục. Trước khi vào
chùa, ta đầy
phiền não,
vào đến chùa được tắm mình trong sự
thanh tịnh (sự
trở về với chính ta), nên
phiền não tiêu tan, và khi ra về ta cũng đem luôn sự
thanh tịnh của chùa
về tưới vào
gia đình.
Được như
vậy thì
ta là người biết đến chùa.
Nhưng trên
thực tế
thì không phải như vậy. Mặc dù thân của ta vẫn đến chùa đều đều, nhưng ta không
còn biết đến chùa thực sự là gì nữa!
Chúng ta đã biến cảnh chùa chiền thành chợ chiều.
Thay vì đến chùa để lấy sự
thanh
tịnh, ta lại đi đem những ô uế và
phiền não nhét đầy vào chùa. Thay vì đến
chùa để
hỏi đạo,
ta lại đem chuyện đời kể cho quý Thầy nghe; thay vì đến chùa làm
công quả kiếm chút
phước, ta lại đi tạo
khẩu nghiệp
nói chuyện người này, kể chuyện người kia. Rồi cứ thế, ngày qua tháng lại, một
ngày kia ta
sực tỉnh,
nhận thấy rằng
từ bao lâu nay ta đến chùa mà chả học được gì hữu ích cả. Kinh băng, sách Phật
chất đầy nhà,
vậy mà
tâm ta vẫn không an, và hình như tham, sân, si vẫn còn đầy, thế rồi ta hoảng sợ
vội vàng chạy
đến chùa để
cầu cứu,
thì ô hay! Sao chùa bây giờ giống như cái chợ chiều? Tìm các Thầy để
hỏi đạo thì các
Thầy chỉ nói chuyện đời,
nếu
không thì lại kêu gọi ta
phát tâm cúng dường... Thế rồi ta chán nản
bỏ ra về, ghê tởm
và xa lánh chùa!
Lòng tin
nơi
Tam Bảo của
ta càng ngày càng giảm. Ta nào có biết đâu rằng tất cả những gì xảy đến cho ta
đều có
nguyên nhân,
đâu phải
tự nhiên
mà có; mà
nguyên nhân
thủ phạm lại chính là Ta. Vì ta không
biết điều đó nên ta rao rằng: chùa này làm tiền, chùa
kia làm tiền! Vì sao lại có
tình
trạng tệ hại như vậy?
Tại vì trước kia đến chùa ta không chịu
học đạo cho đàng
hoàng, chỉ
học lý thuyết
suông cho vui, nên ta đã
bố
thí cúng dường
không
đúng đắn,
không
trong sạch.
Chính
chúng ta
đã biến cái chùa thành cái chợ, thì nay cũng chính
chúng ta phải biến cái chợ thành cái chùa
như thuở nào, và nhất là những ai có thọ
Bồ Tát giới. Công việc này không phải một người có
thể làm nỗi, mà tất cả hàng
Phật
tử tại gia
cũng như
xuất gia.
Tuy nhiên điều
đầu tiên là
chúng ta
phải
ý thức được
sự tệ hại và đình trệ của
Phật
giáo Việt Nam
(hải ngoại). Có
ý thức
được thì
chúng ta
mới mong muốn
sửa đổi,
còn
nếu không
thì chẳng có gì để nói nữa cả. Nhược bằng
ý thức được thì ta hãy
lên đường làm lại
cuộc đời Phật tử của mình, cũng tức là
cuộc đời của
Phật Giáo Việt Nam
vậy. Ta hãy
can đảm
đừng
ngại ngùng
học lại những
giáo lý căn
bản, rồi đem ra
áp
dụng vào
đời
sống hằng ngày.
Chúng ta có
thói quen là thân
thì ngồi
dưới đất,
mà
tâm trí thì
cứ tưởng ở trên mây. Có nghĩa là sao? Nghĩa là
trình độ tu học thì rất kém (tham, sân, si chưa trừ)
mà lại
hay nói
những lý lẽ cao siêu, chỉ thích
tụng kinh Đại
Đại Thừa Đại
Đại Phương Quảng, v.v... Nhất là có những Kinh nào
nguyên văn bằng chữ Hán thì ta lại
mù tịt, không hiểu gì cả. Ta quên mất rằng
đức Phật có nói:
'Nếu tin ta mà không hiểu ta thì đó là hủy báng ta,' vậy nếu ta
tụng kinh Phật mà không
hiểu thì không biết một ngày ta đã hủy
báng Phật bao nhiêu lần rồi? Với
mục đích giúp cho
đọc giả nào muốn làm lại
cuộc
đời Phật tử
của mình, tôi xin
biên soạn
về 'Bố thí
Ba La
Mật', là một trong sáu hạnh của
Bồ Tát. Vì sao lại chỉ nói về
Bố Thí thôi mà
không nói cả sáu hạnh của Bồ Tát? Đó là
tùy tình cảnh,
tùy thời.
Tùy tình cảnh vì
Bố Thí là hạnh đầu tiên trong
Lục Độ và nó dễ
thực hành cho
Phật tử tại gia. Còn
tùy thời là vì ngày
nay rất nhiều
Phật tử
than phiền là
chùa này nhiều tiền, hoặc Thầy này giàu, Thầy kia nghèo,...
Bố thí mà biết cách
thì được
phước đức
vô biên cho
cả người cho lẫn người nhận. Còn
Bố thí mà không biết cách thì chỉ có một bên hoặc chả
có bên nào được lợi cả. Do đó,
Bố
thí mà không biết cách thì
tốt hơn là đừng bố thí!
-oOo-
2. Bồ Tát Đạo
I. Bồ Tát Đạo
Định nghĩa Bồ Tát.
Bồ Tát là
nói tắt của
Bồ Đề Tát Đỏa
tức Bodhisattva (Sanscrit). Bodhi là giác, Sattva là
hữu tình. Bodhisattva có nghĩa là người
giác ngộ. Nói như
vậy thì hơi
mơ hồ, vì
đức Phật cũng là
người
giác ngộ,
A-La-Hán cũng là người
giác
ngộ, vậy
Bồ
Tát khác Phật, khác A-La-hán chỗ nào? Có nhiều lối
giải thích:
1. Trên
phương diện
độ sanh:
A La Hán tự độ (độ
mình),
Bồ Tát
độ tha (
độ người), còn Phật
là
giác hạnh viên mãn (độ mình
và
độ người
đã xong).
2. Trên
phương diện
phát nguyện
thì:
-
A La Hán
chỉ cầu
thoát khỏi
sinh tử luân hồi.
-
Bồ Tát là
người
phát tâm
cầu
thành Phật
để độ tất cả
chúng sinh
thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Trên quảng đường từ lúc mới
phát
Bồ đề tâm (Bodhicitta)
cho đến lúc
thành Phật thì gọi là
Bồ Tát.
3. Trên
phương diện
chứng đắc
thì:
-
A La Hán
đã phá được
ngã chấp,
tức chứng được 'ngã không' (Sattvàsùnyatà), không còn chấp vào một cái Ta
(Atman)
hiện hữu.
-
Bồ Tát cũng
chứng được 'ngã không', nhưng chưa
hoàn toàn được 'pháp không' (Dharmasùnyatà).
- Phật thì đã phá
hoàn
toàn ngã chấp
và
pháp chấp,
tức là thấy được
thực tướng
của
vạn pháp,
thấy được các
pháp không
sinh (anutpanna), không diệt (anirudha).
4. Trên
phương diện
tu trì:
-
A La Hán
tu theo
Tứ Đế,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
-
Bồ Tát hành
Lục độ (
Bố thí,
Trì giới,
Nhẫn nhục,
Tinh tấn,
Thiền định,
Trí huệ).
- Phật thì cũng giống như
Bồ
Tát nhưng đã tới đích. Trên đây chỉ là khái lược sơ về sự khác
biệt giữa Phật,
Bồ Tát
và
A La Hán.
Chúng ta
là hàng
Sơ phát tâm
Bồ Tát thì
cần chú trọng nhiều về hai
phương
diện phát
nguyện và
tu
trì.
Phát
nguyện là
phát
Bồ đề tâm tức
tâm nguyện
thành
Phật để
cứu độ
chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi,
còn
tu trì là
luôn luôn tìm mọi cách để
thực
hành Lục độ.
II. Tầm quan trọng của phát nguyện và hồi hướng
Trong
đạo Phật,
ta thường nghe nói về
Tam
Độc tức là
lòng
ham muốn, giận tức và
si mê, chúng
trói buộc ta
trong vòng sinh tử luân hồi. Và muốn
giải thoát thì ta phải dẹp trừ chúng bằng
cách bớt
ham muốn,
mở rộng lòng từ bi, trau
dồi
giáo lý Phật Pháp. Do hiểu
như vậy, 0nên nhiều người trong
chúng ta không dám mong cầu gì cả, đến chùa
tụng Kinh cho vui
vậy thôi chứ không
thành tâm
phát nguyện
và
hồi hướng (trong
các thời Kinh ở chùa đều có văn
phát nguyện và
hồi hướng, nhưng vì
không chú tâm hoặc không hiểu nên gọi là
không
thành tâm),
khi
bố thí
thì
bố thí vậy
thôi chứ không nghĩ gì hết. Rồi ta cho như vậy là đúng, vì trong
Thiền Tông thường
nói giữ 'Tâm Không', nên ta không dám nghĩ, không dám mong cầu gì hết, chỉ giữ
Tâm Không thôi. Nếu
ta cứ làm như vậy hoài thì
kiếp
sau ta sẽ
đầu
thai thành cục đá bên lề đường, vì cục đá cũng có
Tâm Không,
vô tri vô giác,
không nghĩ, không biết gì cả.
Cõi
Ta Bà mà
chúng
ta đang ở đây thuộc về cõi Dục.
Chúng sanh ở đây luôn luôn
ham muốn,
ham muốn ngũ dục: tiền tài,
sắc đẹp,
danh vọng,
ăn ngon, ngủ
ấm. Nhưng
chúng ta
quên mất một điều là tất cả chư Phật đều
thị hiện thành Phật ở cõi này, chứ không
thành Phật ở hai
cõi Sắc và
Vô Sắc.
Đức Phật dạy
ta
lìa bỏ ngũ dục chứ đâu có
dạy ta
lìa bỏ
Niết Bàn dục
(tức
lòng ham muốn
đạt được Niết Bàn). Ở đời,
khi làm một việc gì thì ta
thường
có lý do
và
mục đích. Lúc
nhỏ ta cắp sách đến trường,
lý
do là
cha mẹ
ta muốn cho ta nên người.
Mục
đích của sự học là để được bằng tú tài. Có tú tài để được vào
Đại Học. Vào
Đại Học mấy năm để
có được một văn bằng (diplôme). Có văn bằng để đi ra làm việc. Làm việc để có
tiền. Có tiền để nuôi thân hoặc nuôi
gia đình,... Tất cả những cái 'để' đó đều là
mục đích của những
hành động và
việc làm
của ta. Khi có
mục đích
là có sự mong cầu. Sự mong cầu hay
ham muốn được xem là tốt hay xấu
tùy theo mục đích của nó tức
là đối tượng của sự mong cầu. Nếu ta
ham muốn ngũ dục thì đó là xấu vì kết quả là ta sẽ
đau khổ, ngược lại
nếu ta
ham muốn
học đạo,
tu đạo, thì đó là
một sự
ham muốn
tốt vì kết quả là ta sẽ
giải
thoát, hưởng sự an vui của
Niết Bàn. Khi ta
ham muốn vừa vừa thì gọi là mong cầu, khi ta
hết lòng ham muốn và
quyết chí đạt cho
được
mục đích
thì gọi là nguyện. Tất cả chư Phật và
Bồ Tát đều là những người đã mong cầu, đã
phát nguyện năm
xưa. Ta há không nhớ
Đức
Phật Thích Ca
đã
phát nguyện
gì
dưới gốc cây
Bồ Đề? Ngài nguyện: 'Dù máu khô, thịt nát, xương tan,
nếu không giác ngộ (
thành Phật) ta thề không rời khỏi nơi đây.'
Ngoài ra đọc
trong Túc Sanh Truyện (Jataka) kể về các
tiền thân của
đức Phật, ta sẽ thấy là mỗi khi làm một hạnh gì, ngài
đều
phát nguyện
và
hồi hướng.
Phát nguyện cầu
thành Phật để
cứu độ chúng sanh và
hồi hướng tất cả
công đức cho
quả vị Phật.
Hồi hướng
là gì?
Là gom góp tất cả để đặt vào một chổ. Người làm phước nhiều mà không biết
hồi hướng sẽ giống
như người đi làm cho có thật nhiều tiền đem về chất đầy nhà, rồi không biết làm
gì với đống tiền đó.
Hãy lấy một
thí dụ:
1. Ta đến chùa làm một việc
công
đức, mà trong tâm ta luôn luôn nghĩ đến sự
giàu sang sung sướng, thì
kiếp sau ta sẽ được
giàu sang sung sướng.
2. Cũng một việc
công đức
đó, mà ta
hồi hướng
được giải thoát
sinh tử luân hồi,
thì trong những
kiếp sau
ta sẽ
được giải thoát
khỏi
sinh tử luân hồi.
3. Cũng một việc
công đức
đó, mà ta
hồi hướng
cầu
thành Phật
thì
chắc chắn
một kiếp xa xôi nào đó ta sẽ
thành
Phật.
Tại sao trong
thí dụ
(1) nói
kiếp sau,
thí dụ (2)
nói những
kiếp sau,
và
thí dụ (3)
nói một kiếp xa xôi,
ý nghĩa
là sao?
Thí dụ (1)
nói về sự
giàu sang
sung sướng ví như một cái áo
bành tô (manteau) trị giá 700 quan.
Thí dụ (2) nói về
sự giải thoát sinh tử luân hồi ví như một chiếc xe hơi trị giá 70.000
quan.
Thí dụ (3)
nói về sự cầu
thành Phật
ví như một
căn nhà villa trị giá 700.000 quan.
Nếu ta đi làm lương một tháng là 5000 quan, và trong đầu ta không có một
mục đích gì cả, thì
khi đi đường, nếu thấy một cái áo bành tô đẹp, vừa giá ta có thể mua được thì
ta mua ngay không chần chờ.
Cũng với số lương đó mà ta muốn có một chiếc xe hơi thì ta phải
dành dụm năm này
qua năm nọ, không dám lấy tiền lương xài vào việc khác như mua quần áo, thì
khoảng vài năm là ta có thể có được một chiếc xe hơi.
Cũng với số lương đó mà ta muốn có một căn nhà villa thì ta phải
dành dụm lâu hơn
nữa vì lương của ta quá ít so với giá
tiền của cái nhà. Do đó ta phải gom góp
dành dụm tiền
lương không dám xài
hoang phí vào
việc khác, mà cốt chỉ để mua nhà.
Vậy thì khoảng hai mươi năm hay hơn nữa ta mới
hoàn toàn làm chủ
cái nhà (vì ở bên Pháp cho trả Crédit).
Sau ba
thí dụ
trên, ta thấy rằng cũng cùng một hành động (karman) cùng một nhân (hetu) mà có
quả báo khác nhau.
Đó là do tâm
hồi hướng
mà ra. Nếu ta tạo
công đức
nhiều mà không biết
hồi
hướng thì uổng lắm, vì sao?
Dĩ nhiên là khi tạo
công đức thì
chắc chắn ta sẽ gặp
quả báo tốt, nhưng
uổng vì đó là
quả báo
hữu lậu của
thế gian, sau một
thời gian ta sẽ còn
lại hai bàn tay trắng mà thôi.
Nếu thấy được tầm quan trọng của sự
phát nguyện và
hồi hướng thì sau này : trước khi, trong khi, và sau
khi làm một việc gì tốt ta nên
phát
nguyện và
hồi
hướng. Và hơn nữa khi ta gặp một việc
công đức nào ta sẽ
vui mừng vì đó là một cơ hội cho ta tiến
mau đến
mục đích
(nếu là
trường hợp
ta thích xe hơi hoặc căn nhà, mà không thích áo bành tô).
Vậy theo ta hiểu thì
Bồ
Tát là phải nhớ đến
Bồ đề tâm, nhớ
phát nguyện và
hồi hướng cầu
thành Phật, nhưng không hiểu tại sao khi ta đọc
Tâm Kinh thì thấy
trong đó có nói câu 'vô trí diệc vô đắc, dĩ
vô sở đắc cố'. Lúc đó ta nên
khởi tâm nghĩ
như vầy :
Bồ Tát Quán Tự Tại là bậc
Diệu Giác Bồ Tát, còn ta đây
là
Bào thai Bồ Tát (
Bồ Tát còn nằm
trong bụng mẹ). Hơn nữa
Quán
Tự Tại Bồ Tát đã hiểu, đã thấy, đã chứng được
tánh Không, tức
thực tướng của
vạn pháp, còn ta
đây không biết cái gì là phải cái gì là trái, cái gì tốt cái gì xấu, cái gì là
Từ Bi cái gì là
ác độc, nói chi đến
tánh Không với
tánh Có. Ta đừng làm giống như người đang đi trên sông, thấy người khác đến bờ
vứt bỏ con thuyền,
mà ở đây ta cũng
vội vàng
lấy búa ra đập thủng thuyền của mình. Ta phải luôn luôn
ý thức nhìn lại xem
mình là ai? Em bé lên 3, thanh niên 20, hay ông lão 70. Nếu là em bé lên 3 thì
ta hãy
vui vẻ
tập đi, không nên bắt chước lấy cây gậy của ông già bảy mươi mà
chết sớm. Còn ngược
lại nếu thấy mình là ông lão bảy mươi thì ta cứ việc 'vô trí diệc vô đắc, dĩ
vô sở đắc cố',
không ai cấm cản vì
đạo Phật
là đạo
tự giác
không có bắt buộc hay
độc
tài.
Sau khi hiểu được sự
phát
Bồ đề tâm cũng như sự
phát nguyện và
hồi hướng của
Bồ Tát, ta bước sang phần
thực hành của
Bồ Tát tức
Lục Độ.
À, hình như
chúng ta
quên mất một điều, là không biết tại sao
Bồ Tát lại phát
Bồ đề tâm?
Mục đích của
Bồ đề tâm là
thành Phật cứu độ chúng sanh, nhưng
lý do và căn nguyên của sự
phát Bồ đề tâm là
gì?
Bồ Tát phát Bồ đề tâm,
lý do vì
Bồ Tát thấy
chúng sanh đau khổ nên muốn
cứu khổ chúng sanh, muốn
cứu khổ chúng sanh nên mới
cầu
thành Phật
tức cầu sự
giác ngộ
hoàn toàn.
Bồ Tát là
những người
ý thức
được sự
đau khổ
của
cuộc đời,
thấy rõ được sự bất công, sự
đàn
áp,
bóc lột,
lợi dụng, tàn
hoại,
ác độc của
chính
con người
tạo cho
con người.
Nếu
Bồ Tát chỉ
ngồi một chỗ, cần gì hô lên một tiếng, có người đem đến dâng cho, thì
Bồ Tát khó
ý thức được sự khó
khăn, đổ mồ hôi sôi nước mắt của người dâng cho mình.
Nếu không tự
thân chứng nghiệm
đau khổ, thì
ít nhất Bồ Tát cũng tập
ý thức sự có mặt của
đau khổ nơi mọi
loài. Vì có
đau khổ
nên mới có
đạo Phật,
nếu không có
đau khổ thì không
có
đạo Phật.
Bồ Tát ý thức được sự
đau khổ không phải
để
sợ hãi, mà
là để
nuôi dưỡng
lòng từ bi
của mình.
Bồ đề tâm
của
Bồ Tát cũng
ví như ngọn
lửa được đốt bằng dầu
đau
khổ.
Nếu không
có dầu
đau khổ
thì ngọn lửa
Bồ đề tâm
sẽ tắt. Do đó đối với
Tứ
Diệu Đế,
Bồ
Tát đã
thấu
triệt hoàn
toàn. Nếu
chúng
ta muốn
đi
theo con đường
của
Bồ Tát
thì
chúng ta cũng
cần phải học
cho
thông suốt
Tứ Diệu Đế,
nếu không được thì
ít nhất chúng ta cũng
cần phải hiểu được
'Nhị diệu đế' tức là hai
Diệu
đế đầu:
Khổ Đế
và
Tập Đế. Và
sau khi
hiểu rõ
rồi thì ta hãy tiến bước trên
Bồ
Tát đạo,
nếu
không như thế thì ta chỉ là 'danh tự Bồ Tát', tức là ta đến chùa
thọ
bồ tát giới
cho vui mà thôi.
Sau khi hiểu được
nguyên
nhân và
mục
đích của
Bồ
Tát, ta bước sang
con đường đi của
Bồ Tát, tức
Bồ Tát đạo (Bodhisattvamàrga).
Bồ Tát đạo
thường được biểu hiện qua
Lục
độ, tức sáu hạnh, còn gọi là
Lục Ba La Mật (Pàramità)
gồm có:
Bố thí (Dàna),
Trì giới (Sila),
Nhẫn nhục (Ksànti),
Tinh tấn (Vìrya),
Thiền định
(Dhyàna),
Trí tuệ
(Prajna). Pàramità dịch âm là
Ba
La Mật Đa, dịch chữ là
Đáo Bỉ Ngạn có nghĩa là
đến bờ bên kia.
Lục Ba La Mật là sáu
phương tiện có khả năng
đưa (độ)
Bồ Tát
sang
đến bờ bên kia
là bờ
Đại Giác,
tức Phật.
Trong
phạm vi
nhỏ hẹp, sách này chỉ xin nói về
Bố thí Ba la mật thôi. Vì
bố thí đúng với
ý nghĩa của nó thì nó
bao gồm cả
sáu Ba la mật,
nếu không thì nhiều
khi nó cũng không được gọi là
Bố
thí nữa.
-oOo-
3. Bố thí
là gì?
I. Bố thí
là gì?
Bố thí là
hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của
Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự
cho, dịch sang tiếng Hán Việt là
Bố thí. Bố là khắp, thí là cho.
Bố thí là cho khắp
tất cả. Nếu nói như
vậy thì
hơi
đơn giản
và
mơ hồ. Vì
cho khắp tất cả có nghĩa là cho khắp tất cả những gì mình có, hay cho khắp tất
cả chúng sinh?
Khi ta đi đường gặp một kẻ
nghèo
khó đứng
xin
ăn, ta lấy năm đồng hay một cắc ra cho họ, thì ta gọi đó là
bố thí cho kẻ
nghèo. Trong
gia đình
khi ta cho con cái vật gì thì ta chỉ gọi đó là cho. Đối với những người có
địa vị xã hội cao hơn ta,
hay đối với hàng ông bà chú bác thì ta không gọi là cho mà gọi là Tặng hay
Biếu. Rồi khi vào chùa đối với
Tam
Bảo ta lại có
tiếng
gọi khác là
cúng
dường. Cũng là một hành động cho mà lại có nhiều tên gọi khác
nhau vì đó là tùy ở nơi đối tượng của sự cho, tức là người nhận.
Mùa Xuân Tết đến,
ta không thể đem một món quà đến gặp ông chủ của mình mà nói rằng: 'Tôi xin
bố thí cho ông chủ
món quà', hoặc gặp một vị Thầy ta nói: 'Con xin
bố thí cho Thầy', hoặc ta cũng không thể
nói: 'Ba
cúng dường
cho con một hộp bánh', v...v... Tiếng Việt của ta
rắc rối lắm, không phải dễ dàng đâu!
Nếu không chú ý
cẩn thận một chút
là ta có thể gây
phiền phức
cho chính mình và cả người khác nữa.
Như ta đã thấy
Bố thí
gồm có nhiều nghĩa:
cho, tặng, biếu,
cúng dường,
bố thí. Nhưng
để
giản tiện bớt
cho những trang sau, ta tạm gọi tất cả những cái đó là
Bố thí.
II. Vì sao phải bố thí?
Vì
Bố thí đem
lại nhiều
lợi ích
sau đây :
Bố thí
là một kho tàng
phước đức
luôn luôn
đi theo
người chủ (tức người cho) đời này sang đời khác;
bố thí xây dựng hạnh phúc và
tiêu trừ đau khổ; người biết
bố thí thì ai cũng
thương mến;
bố thí làm cho tâm (người cho) được an vui,
khi
gần chết tâm không sợ hãi;
bố thí tiêu trừ lòng
tham lam bỏn xẻn; người biết
bố thí thì
chư Thiên ủng hộ;
bố thí là
con đường trong sạch mà tất cả
Thánh nhân đều
đã đi qua;
bố thí
là một
thiện nghiệp
sẽ cho ra
quả báo
tốt;
bố thí là
hành động của những người hùng;
bố thí sẽ
tiêu trừ sự nghèo và
đóng cửa dẫn đến
ba đường ác (
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh);
bố thí giữ gìn công đức;
bố thí là
điều kiện đầu tiên của
con đường dẫn đến
Niết Bàn;
bố thí là gốc rễ của tất cả
thiện pháp;
bố thí là nhà ở của
những người cao quý, là thú vui của những bậc Thánh (Arya) và Vĩ nhân;
bố thí là một cái
gương sáng đáng để
cho những người thiếu
phước
đức và
trí huệ
noi theo.
* Người trí và người ngu trong cuộc hỏa hoạn.
Khi có một cuộc hỏa hoạn, người có
trí khôn biết
nhận xét xem lửa có thể lan đến nhà mình hay không?
Nếu có thì
vội vàng
thâu góp
tài sản
dời đi chổ khác
yên ổn
trước khi lửa cháy tới. Đến khi lửa lan tới và mặc dù căn nhà của mình bị cháy
tiêu rụi, nhưng người ấy vẫn còn nguyên những gì quý giá, và nhờ đó có thể xây
cất lại căn nhà khác. Cũng như thế, người trí biết được cái thân xác của mình
rất
mong manh
dễ tàn, và
của cải
vật chất cũng
vậy nay còn mai mất, thừa dịp tốt lúc thân xác và
của cải chưa mất, người ấy trau giồi
tích tụ công đức bằng cách
thực hành bố thí,
cũng giống như người khôn biết thâu nhặt đồ vật quý giá trước khi nhà cháy; và
trong những
kiếp sau
người ấy (người
bố thí)
sẽ được hưởng lại sự
bố thí
do
phước báo đã
tạo, giống như người khôn xây lại căn nhà mới vậy.
Ngược lại, cũng trong một cuộc hỏa hoạn, người ngu không biết làm gì, chỉ vì
tham lam không
muốn rời bỏ căn nhà; đến khi lửa cháy
tới nơi, hoảng hốt lo
chạy thoát thân
một mình, không
đem theo được đồ vật nào cả; người này
không có
trí khôn
nhận xét được
sự lan tràn nhanh chóng của lửa (nhất là khi có gió to), để rồi dưới sức gió
mãnh liệt và ngọn lửa vô tình, căn nhà của mình chỉ trong vài phút là cháy rụi
ra tro. Tệ hơn nữa là chờ đến giờ phút chót mới lo
chạy thoát thân nên không
đem theo được
tài sản nào hết. Do
đó sau cuộc hỏa hoạn, người này phải chịu
đói khát, chịu nóng lạnh và sống
cực khổ cho đến hết
cuộc đời.
Trường hợp của một
người
tham lam,
bỏn xẻn,
keo kiệt cũng giống
như người ngu vừa kể trên, tức là không biết rằng thân xác,
của cải và mạng
sống rất
mong manh,
dễ tàn nay còn mai mất, không thể nào giữ
mãi mãi được, chỉ trong một tíc tắc đồng hồ thôi là
có thể
tiêu tan
mất hết. Vì không biết được như vậy nên
trong suốt cuộc đời, người ngu chỉ chúi đầu vào việc
tích tụ của cải,
vơ vét tiền bạc,
rồi
bảo vệ,
giữ gìn chúng một
cách
tham lam
ích kỷ. Nhưng
rồi bất
thình lình
một ngày nào đó 'Thần chết' đến gõ cửa nắm đầu lôi đi (không thể từ chối được).
Xác
thân tứ đại
này tan rã
trở về
với đất rừng, những
của cải,
tài sản khổ
công
tích tụ đều
phải bỏ lại không
đem theo
được, và
kiếp sau
tái sinh trong
cảnh
nghèo khổ,
đói rét giống như người ngu hoảng hốt trong cơn hỏa hoạn vậy.
Người trí,
rộng lượng
biết được rằng: khi
bố thí
cho người khác tức là làm
lợi
ích cho chính mình. Ngược lại người ngu, bần tiện, không biết
được rằng:
nếu không
bố thí hay
giúp đỡ người khác tức là chả làm được
lợi ích gì cho chính mình cả.
-oOo-
4. Bố thí
có mấy loại?
Nếu ta là người học Phật lâu năm ta sẽ nhanh nhẹn
trả lời rằng có 3 loại:
1)
Tài thí:
tức
bố thí tiền.
2)
Pháp thí:
tức
bố thí pháp.
3)
Vô úy thí:
tức
bố thí sự
không
sợ hãi.
Trả lời như
vậy xong, ta yên chí cho là mình đã hiểu xong
Bố thí Ba La Mật, rồi ta bỏ qua, đi lấy
Kinh Hoa Nghiêm ra đọc,
hoặc lấy sách
Tổ Sư Thiền
ra coi. Nhưng
than ôi!
Ta đã lầm to,
Bố thí Ba La
Mật đâu phải chỉ có bấy nhiêu thôi!
Khi nói đến sự
bố thí,
thì ta
nhận ra
có ba
yếu tố tạo
ra nó, đó là: người cho (năng thí), món đồ (
vật thí), và người nhận (sở thí).
Ba món
Bố thí
mà ta vừa kể trên (Tài, Pháp,
Vô
úy) thuộc về
vật
thí. Còn người cho và người nhận, ta đã
sơ xuất bỏ quên. Ba
yếu tố cho ra sự
Bố thí quan trọng lắm, nếu thiếu một trong
ba cái đó thì sẽ không có sự
Bố
thí.
Có người cầm trong tay một món đồ muốn cho mà không có ai nhận thì không có
sự
bố thí. Có
món đồ mà không có người cho và người nhận thì cũng không có sự
bố thí. Có người
sẵn sàng nhận đồ mà không có ai cho thì cũng không có sự
bố thí.
Nếu muốn phân loại thì ta phải căn cứ trên ba
yếu tố của sự
Bố thí mà phân loại:
- Trên
phương diện
người cho (dayaka) thì có hai loại:
Bố thí trong sạch (visuddhadàna) và không
trong sạch
(avisudha).
- Trên
phương diện
vật thí
(deya) thì có ba loại:
Tài
thí (Dravyadàna),
Pháp thí (Dharmadàna) và
Vô úy thí (Abhayadàna).
- Trên
phương diện
người nhận (tức đối tượng của sự
bố thí), còn được gọi là
ruộng phước (
phước điền) thì có hai loại:
ruộng phước nhỏ
(karunàpunyaksetra) và
ruộng
phước lớn (satkàrapunyaksetra).
Trên đây chỉ là tạm phân loại tổng quát thôi, vì mỗi loại lại được phân ra
làm các phần nhỏ nữa mà ta sẽ đi sâu vào
chi tiết sau.
I. Trên phương diện
người thí
Có
hai loại bố thí:
Trong sạch và
không
trong sạch.
1) Thế nào là
bố thí
không trong sạch?
Đó là
bố thí
vì:
tư lợi,
bất kính,
chán ghét,
yếu hèn, muốn
dụ dỗ,
sợ chết, muốn
chọc tức, ghen tức,
ganh đua,
kiêu ngạo,
cầu danh, tránh né
sự nguy hiểm, muốn
mê hoặc
lòng người,...
Tóm lại
bố thí vì một
cái tâm
xấu xa,
không nghĩ đến sự an vui hay
lợi
ích cho người nhận.
2) Thế nào là
bố thí
trong sạch?
Nói một cách giản dị, đó là sự
bố thí có tánh cách ngược lại những gì đã tả ở phần
trên. Còn có nghĩa là
Bố thí
mà muốn đem lại
lợi ích
cho người nhận.
Vừa kể trên là sự
bố thí
trong sạch cho
tất cả
mọi người.
Riêng cho
Phật tử
thì
Bố thí trong sạch còn có
nghĩa là bồi đắp
công đức
cho
sự giải thoát,
tức
Niết Bàn
(Nirvàna).
Phải bồi đắp cách nào? Bằng cách
bố thí với tâm
trong sạch, không cầu
phước báo của Trời (Deva), người (Manusya),
không cầu sự
sung sướng
trong đời này
và
đời sau,
chỉ cầu
giải thoát
của
Niết Bàn,
bố thí với
tấm lòng
cung kính
(satkàra) hoặc
từ bi
(maitrìkarùna). Trong lúc chưa chứng được
hoàn toàn quả
Niết Bàn, ta vẫn
tái sinh ở cảnh an vui của Trời, người (mặc dù không
cố ý cầu), đó là do
nghiệp báo tốt
của sự
bố thí
trong sạch.
Đức Phật có nói rằng:
'Trên đời này có hai hạng người rất là hiếm có: 1) Một vị Tỳ Khưu đã
hoàn toàn giải thoát trong số
các
tu sĩ
lang thang (pravajita); 2) Một người biết
bố thí trong sạch trong số các
cư sĩ tại gia' (Anguttara I).
II. Trên phương diện
vật thí
Có ba loại:
Tài thí,
Pháp thí và
Vô úy thí.
Trong mỗi loại trên lại chia ra:
chân chính và không
chân chính.
1) Tài thí
Tài thí lại
chia ra hai loại: Ngoại thí và Nội thí.
a) Ngoại thí (bàhyadàna): Ngoại thí là
bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng, bạc,
của cải, quần áo,
đồ ăn
thức uống...
b) Nội thí (àdhyàtmika): Nội thí là
bố thí những gì trong
thân thể con người chúng ta; như
xưa kia đức Phật còn làm
Bồ Tát đã
bố thí đầu, mắt, chân, tay... Ngày nay ta
không làm nổi như
vậy thì
ta có thể ra công giúp sức như làm
công quả cho chùa, kéo xe cho người già, v...v...
Hoặc tiếp máu cho bệnh nhân ở nhà thương, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong
thân thể mình nếu
bị chết bất đắc kỳ tử.
c)
Tài thí
chân chính:
là những đồ vật được
bố thí
không phải do từ
trộm cắp
hay cướp giật. Nếu ngược lại là
tài thí không
chân chính.
Ngoài ra nếu
ta
bố thí trong
những
trường hợp
sau đây thì
phước báo
sẽ tăng lên gấp bội:
1.
Bố thí đúng lúc. Có nghĩa
là
bố thí cho:
những người đi xa, người từ xa mới đến, người bịnh, người
trông coi kẻ bịnh,
trong những mùa giá lạnh.
2.
Bố thí luôn
luôn mà không thấy
mệt mỏi
hay chán nản.
3.
Bố thí tùy theo sở thích của người
xin.
4.
Bố thí những
vật quí giá.
5.
Bố thí cho
những người làm việc cho Chùa, làm vườn, đào mương ...
6.
Bố thí cho
chư Tăng.
7.
Bố thí mà
kính trọng người
nhận.
8.
Bố thí cho
những người có
đức hạnh.
9.
Bố thí tất
cả những gì mà mình có.
* Sự bố thí
toàn vẹn của
Họa sĩ Karna (Sùtralamkara).
Thuở đó ở làng Puskaravàvati có một người họa sĩ tên là Karna. Vì làm ăn
không khá nên anh ta đã từ giả
gia
đình vợ con,
lên đường một mình sang nước
lân cận là
Taksasila. Nơi đây anh ta tận tụy làm việc, kết quả là sau mười hai năm, anh ta
đã
dành dụm được
ba chục
đồng tiền
vàng. Hớn hở, anh ta
trở về
quê cũ, trên đường về làng nghe thấy một hồi chuông trống
báo hiệu sắp có một
cuộc hội họp quan trọng của
Chư
Tăng, thế là anh ta
lần mò đến. Với một
đức tin trong sạch anh đi gặp vị Tăng
Tri sự (tức vị Tăng
phân phối
chỉ huy
buổi họp) mà
hỏi rằng: 'Thưa ngài,
buổi
họp như vậy nếu kéo dài một ngày thì phải cần chi phí bao nhiêu
để có thể
cúng dường
(vật thực) đầy đủ cho chư Tăng?' Vị Tăng
Tri sự trả lời: 'Khoảng ba mươi đồng vàng thì đủ cho một
ngày'. Nghe vậy xong, anh liền móc túi
lấy ra ba mươi đồng vàng đưa hết cho vị
Tri sự mà thưa
rằng: 'Con xin
thành tâm,
dâng
cúng vật
thực một ngày cho chư Tăng'. Sau đó anh ta
trở về nhà với hai bàn tay trắng.
Về đến nhà, vợ anh mừng rỡ chạy ra đón và hỏi: 'Trong suốt mười hai năm anh
đã làm được bao nhiêu tiền?' Anh ta
trả lời: 'Được ba mươi đồng vàng'. Vợ anh hỏi tiếp:
'Thế ba mươi đồng vàng đâu anh hãy cho xem?' Anh ta nói: 'Tôi đã gieo tất cả
vào một
ruộng phước
(punyaksetra) rồi'. Vợ anh hỏi
ruộng
phước nào thì anh
trả lời: 'Tôi đã
cúng dường hết cho
Giáo đoàn Tăng Già (Sangha)'. Vừa nghe như vậy xong,
người vợ liền
nổi giận
la hét
mắng chửi
và đánh đập anh, rồi lôi kéo anh ra tòa nhờ quan trên
xét xử và
trừng phạt anh. Ra đến tòa, quan hỏi có
chuyện gì thì vợ anh thưa rằng: 'Chồng tôi là một tên khùng nặng !
Trong suốt mười hai
năm trời đi làm ở nước ngoài,
dành
dụm được ba mươi đồng vàng. Nhưng về đến đây không biết nghĩ và
thương hại đến
vợ con, nên chồng
tôi đã
phung phí,
cho người ta hết không còn đồng nào. Chiếu theo
pháp luật, tôi lôi anh ta đến đây xin quan
trên xét xử'. Quan tòa hỏi người chồng: 'Tại sao anh lại đưa cho người ta hết
thay vì đem về đưa cho vợ con?' Anh
trả lời: 'Trong những kiếp sống trước của tôi, tôi đã
không biết làm các
hạnh lành,
vì thế nên trong kiếp này tôi phải chịu cảnh nghèo và
cực khổ. Nhưng cũng trong kiếp này, tôi có
duyên may gặp được một
ruộng
phước, và nếu tôi không nắm lấy cơ hội gieo vào đó những
hạt giống lành, thì
chắc chắn trong
những kiếp
vị lai
tôi sẽ phải chịu
mãi mãi
cảnh
nghèo khổ
không biết đến bao giờ mới hết. Vì muốn
thoát khỏi cảnh
nghèo khổ nên ngày hôm nay tôi đã
cúng dường hết số
vàng của tôi cho đoàn Tăng Già'.
Vị quan tòa
này lại là một
Ưu bà tắc
(Upàsaka), có
đức tin
trong sạch
nơi
Tam Bảo,
nên sau khi nghe anh họa sĩ
trả
lời như thế, liền
hết lòng tán thán: 'Việc làm của anh
quả thật là cao thượng, anh đã biết
bố thí toàn vẹn cho
Giáo đoàn số tiền
dành dụm được sau
bao năm làm lụng
cực khổ.
Thật là cao quý, tôi đây thiệt không bằng'. Thế rồi
vị quan tòa liền tháo cái vòng ngọc đang
đeo ở cổ đưa tặng anh ta,
cùng
lúc cho anh ta con ngựa của mình đang cưỡi và một làng nhỏ. Rồi
cuối cùng quan tòa
lại nói thêm: 'Anh vừa mới hiến tặng cho
Giáo đoàn, thì tôi đây cũng xin hiến tặng lại anh,
nhưng đó chỉ gọi là một chút
quả
báo hiện tại,
chắc chắn trong
những kiếp tới
phước đức
quả báo của
anh sẽ vô lượng'.
* Sự cúng dường
của Ma Ha Ca Diếp
(Maha Kasyapa)
Ca Diếp có
nghĩa là
Ẩm Quang,
vì
thân hình của
ngài lúc nào cũng
tỏa ra
ánh sáng
rực rỡ
và
trang nghiêm.
Do
nhân duyên
nào mà được như thế? Trong một
tiền
kiếp quá khứ
xa xưa vào thời
Đức Phật
Tỳ Bà Thi
(Vipasyin), lúc đó
tôn giả
Ca Diếp tiền
thân là một thợ bạc chuyên
đúc tượng. Một ngày nọ, có một
thiếu nữ nghèo vào
tiệm trên tay
mang theo
một thoi vàng, nhờ ông đúc một pho
tượng Phật. Người thợ bạc thấy thế liền hỏi : "
Vàng ở đâu mà cô có? "
Thiếu
nữ trả lời
:" Trên đường đi lễPhật về đã nhặt được."
Người thợ bạc lấy làm
ngạc
nhiên hỏi : " Tôi thấy cô
nghèo khổ quá, không đủ cơm ăn, áo mặc, sao
cô không đem vàng này bán đi để
chi dụng cho cuộc sống mà lại đem
đúc tượng Phật? "
Thiếu nữ
nói : "Vì tôi có phát
lời
nguyện tại chùa là nếu có đủ
thuận duyên thì tôi sẽ đúc một pho
tượng Phật bằng
vàng đẻ cho
chúng sinh
chiêm ngưỡng lễ bái. Và hôm nay
làm được như vậy là tôi
mãn
nguyện lắm rồi, không còn mong
cầu chi khác hơn."
Cảm động trước
sự
phát tâm bố thí cúng dường quá rộng
lớn của
thiếu nữ,
người thợ bạc cũng
phát tâm
: " Được, tôi sẽ đúc cho cô pho
tượng Phật này và tôi cũng xin nguyện
cúng dường không
lấy tiền công."
Do nơi công đức bố thí và
cúng dường này mà
chín mươi mốt
kiếp sau,
hai người sinh ra lúc nào
thân
hình lúc nào cũng
trong sáng trang nghiêm và gặp được nhiều
thiện hữu tri thức,
cho đến kiếp sau cùng sinh
vào nước
Ấn Độ
gặp Phật
Thích Ca
xuât gia
học đạo
đồng
chứng quả
A La Hán.
2) Pháp thí
Thế nào là pháp thí?
Được xem là
pháp thí
gồm có:
1. Tất cả những
lời nói
chân thật, hữu
ích có thể đem lại
an lạc
cho người nghe.
2. Giảng dạy
chánh pháp
của
đức Phật
(Buddhadharma).
3. Giảng dạy ba Tạng pháp: Kinh (Sùtra), Luật (Vinaya) và Luận (Abhidharma).
4. Giảng dạy cho người biết hai pháp:
Thanh văn (Sravaka) và
Bồ Tát (Bodhisattva).
Nghi vấn:
Tại sao
Đề Bà Đạt Đa
(Devadatta) cũng giảng dạy ba Tạng pháp, pháp
Thanh văn và
Bồ Tát mà lại bị đọa xuống Địa ngục?
Lý do tại sao?
Ai cũng biết
Đề Bà Đạt Đa
là người chuyên môn
ganh đua
tìm cách hại
đức Phật, lại còn
hay chia rẽ phá rối sự
hòa hợp
của
Tăng đoàn.
Ngoài hai
trọng tội
này ra,
Đề Bà Đạt Đa
lại còn tạo rất nhiều tội về
tà
kiến. Sự giảng dạy
thuyết pháp của
Đề Bà Đạt Đa không phải là một sự
bố thí Pháp trong sạch, nhằm
cầu
sự giải thoát,
mà là
cầu danh,
cầu lợi, cầu
sự
kính trọng,
... Chính vì
sự Pháp
thí không
trong sạch
này nên
Đề Bà Đạt Đa
chẳng gặt hái được
công đức
nào, và vẫn bị xuống
địa
ngục như thường.
*
Pháp thí
không
chân chính
là giảng dạy những
giáo pháp
của
ngoại đạo,
không đưa
con người
đến
sự giải thoát
sinh tử luân hồi
(như dạy xuất hồn, dạy làm bùa phép, v...v...)
*
Pháp thí
chân chính là
giảng dạy những
giáo pháp
đưa
con người
đến
giải thoát rốt ráo
của
Niết Bàn
(Nirvàna).
3) Vô úy thí
Vô úy thí có
nghĩa là
bố thí
sự không
sợ hãi,
tức là làm cho người khác được
an
tâm yên chí, không sợ gì cả.
Theo nguồn gốc
Kinh tạng
nguyên thủy (Anguttara,
Itivuttaka) thì chỉ có
hai
loại Bố thí, đó là
Tài thí và
Pháp thí. Nhưng theo
giáo lý Đại thừa (Mahayàna), có thêm vào một loại
bố thí thứ ba là
Vô úy thí.
Theo
ý kiến
cá nhân, thì
tôi thấy
Vô úy thí
nằm trong
Tài thí
hoặc
Pháp thí.
Vì sao? Vì khi
bố thí,
tức là cho, thì có hai cách: một là cho bằng hành động, hai là cho bằng
lời nói. Nếu bằng
hành động thì đó thuộc
Tài
thí, còn nếu bằng
lời nói thì đó thuộc
Pháp thí.
Thí dụ:
* Nếu có một người đi
đường
ban đêm sợ cướp giật, thấy thế ta liền
đi theo bảo vệ cho người đó hết sợ. Ta gọi đó là
Vô úy thí. Nhưng
hành động
đi theo
của ta chính là thân thí (có nghĩa là vác cái thân của ta
đi theo người đó),
vậy tức là thuộc
tài thí
rồi.
* Nếu có người
sợ chết,
sợ xuống
địa ngục,
ta liền đem
giáo lý
an ủi họ, chỉ
cho họ làm lành hoặc biết
niệm
Phật thì
sau
khi chết sẽ về
Cực
Lạc. Nhờ đó họ không còn
sợ chết nữa. Ta gọi đó là
vô úy thí. Nhưng những lời lẽ mà ta
an ủi họ, đó chính
là
Pháp thí rồi.
Ta không thể nào
tự nhiên
làm cho người khác hết
sợ
hãi được. Ta phải làm một cái gì đó (một
lời nói, một sự
hiện diện, một sự
an ủi, một sự giúp sức,...) cho người ấy thì
người ấy mới hết sợ (
vô úy)
được. Sự hết sợ chính là kết quả của
Tài thí hoặc
Pháp thí.
Vì vậy Vô úy thí không thể được xem là một loại
bố thí riêng biệt
không
tùy thuộc
gì nơi hai sự
bố thí
kia cả (Tài và
Pháp thí).
* Thế nào là vô úy
thí chân chính?
Vô úy thí chân chính hay
không
chân chính
đó là
tùy thuộc
ở
Tài thí và
Pháp thí có
chân chính hay
không?
Thí dụ:
- Có một người
sợ chết.
Ta bảo họ
đừng sợ,
cứ lo
niệm Phật,
ăn chay, làm
phước, đến khi chết sẽ về
Cực
Lạc. Thế rồi họ nghe theo và hết
sợ chết. Đó là
vô úy thí chân chính.
- Cũng cùng một người, nếu ta bảo họ
đừng sợ chết, vì chết là hết, không có gì phải lo cả,
không có
địa ngục,
không có
thiên đàng.
Nếu họ tin ta mà không
sợ
chết nữa, thì đó là
Vô úy thí không
chân chính (vì ta dạy họ chấp đoạn).
4) So sánh
ba loại Bố thí
Vì thấy
Vô úy thí
nằm trong
Tài thí
hoặc
Pháp thí
nên ở đây tôi chỉ
so sánh
Tài thí với
Pháp thí thôi.
Đa số chúng ta ai cũng
biết trước là
Pháp thí quý hơn
Tài thí. Chính
đức Phật đã nói:
'Trong
hai loại Bố thí
này, thì
Pháp thí
là trên' (Anguttara I). Vì sao? Vì nhiều
lý do:
-
Phước báo
của
Tài thí vẫn
thuộc
cõi Dục giới
(Kàmadhatu) còn
phước báo
của
Pháp thí có
thể nằm trong
ba cõi
(Traidhàtuka) hoặc ngoài
ba
cõi.
- Sự
Bố thí
tài (
tiền của,
đồ vật) có
giới hạn,
còn sự
Bố thí Pháp
không có
giới hạn
(apramàna), vì tiền cho lâu rồi cũng hết, còn
giáo pháp cho hoài không bao giờ hết.
-
Quả báo của
Tài thí còn
thuộc về
hữu lậu,
trong khi
quả báo
của
Pháp thí thuộc
vô lậu.
-
Bố thí
tài
cần phải đòi
hỏi nhiều
sức lực,
ra công trong khi
bố thí
pháp chỉ cần sự
thông
minh và
trí
tuệ.
- Chỉ có
bố thí Pháp
mới có thể gặt hái được những
phước
báo giống như các hàng
Thanh Văn (Sravaka),
Bích chi Phật (Pratyekabuddha) hay
Bồ Tát
(Bodhisattva).
- Chỉ có
bố thí Pháp
mới có thể dẫn người khác đến
con
đường giác ngộ
(Bodhimàrga).
- Ta có thể
thực hành
Tài thí trong
bất cứ
thời đại
(Kalpa) nào, dù có Phật hay không có Phật ở đời. Ngược lại, chỉ trong
thời đại có một
đức Phật ra đời ta
mới có thể
thực hiện
Pháp thí được.
Vì
thế Pháp thí
hiếm hơn
Tài thí.
Ta có thể nêu ra nhiều
lý
do nữa, nhưng
tóm
lại bố thí
Pháp sẽ gặt hái được nhiều
công đức hơn
bố thí tài.
III. Trên phương diện
người nhận hay ruộng phước
Tại sao lại gọi người nhận (pratigràhaka)
ruộng phước (punyaksetra)?
Tại vì chính ở nơi
họ mà ta gieo
hạt giống
phước đức nên
gọi là
ruộng phước.
Nhờ có họ mà ta mới
thực
hiện được sự
Bố
thí.
Có hai loại
ruộng phước:
1)
Ruộng phước
nhỏ(Karunàpunyaksetra) : Vì
lòng
thương hại (karunà) người nhận nên ta
phát tâm bố thí. Những
hạt giống thương hại sẽ cho ra những cây lúa nhỏ, nên
gọi là
ruộng phước
nhỏ.
2)
Ruộng phước
lớn (satkàrapunyaksetra) : Vì có
tâm kính trọng (satkàra) người nhận nên ta
phát tâm bố thí. Những
hạt giống kính trọng sẽ cho
ra những cây lúa lớn, nên gọi là
ruộng phước lớn.
* Sự Bố thí
của vua A Dục
(Asoka)
Một hôm
đức Phật
đi tản bộ cùng với ngài
A
nan trên thành
Vương
Xá (Ràjagrha). Đến một quãng đường có hai trẻ nhỏ Jaya và Vijaya
đang
vui đùa lấy
đất sét nắn thành những cái nhà nhỏ. Khi thấy
đức Phật đến gần, chúng rất
vui mừng hớn hở. Jaya lấy đất sét nắn thành
một cái bánh,
thành kính
cúi đầu cúng dâng cho
đức
Phật, còn Vijaya lức đó cũng chắp hai tay lại cúi lạy theo bạn.
Jaya, trong lúc
cúng dường
cái bánh đất,
phát nguyện
rằng sau này sẽ làm vua an trị cả
một thế giới, rồi em tụng lên một
bài kệ cúng dường đức Phật.
Đức Phật hoan hỷ đưa tay đón
nhận cái bánh đất của em và
mỉm
cười. Thấy
đức
Phật mỉm cười,
ngài
A nan lấy
làm lạ nên hỏi
lý do,
và
đức Phật trả lời rằng: 'Một
trăm năm, sau khi ta
nhập
Niết Bàn, đứa bé này sẽ là một vị
Chuyển luân thánh vương (Cakravartin)
trông coi một trong
bốn châu
thiên hạ,
và trong thành phố Kusumapura (Pàtaliputra), nó sẽ làm một vị
minh vương tên là A
Dục (Ásoka). Sau khi chia phát những
xá lợi của ta xong, nó sẽ xây cất 84.000
bảo tháp để làm
lợi ích cho muôn
loài'.
Sự tích trên
cho ta thấy
ý nghĩa
phước báo của
một sự
bố thí
với lòng
kính trọng
người nhận, tức
ruộng phước
lớn.
* Sau khi phân tách
tỉ mỉ, đi sâu vào chi tiết
từng loại bố thí,
ta có thể tóm tắt
lại như sau:
Một sự
bố thí
được xem là
trong sạch
và đem lại
phước đức
quả báo vô lượng vô biên cần phải có ba
yếu tố sau đây:
1) Người
bố thí
phải có tâm
trong sạch.
2) Vật được thí phải
chân
chính.
3) Người nhận phải được
kính
trọng tối đa.
PHẦN II
5. Bố Thí Ba La Mật
Thế nào gọi là
Bố thí
Ba La Mật?
Về
Bố thí
(Dàna) thì
chúng ta
đã được trình bày trong các phần trước rồi. Bây giờ
chúng ta tìm hiểu chữ
Ba La Mật (paramità).
Paramità dịch âm là
Ba
La Mật Đa. Nhưng ở đây
chúng ta nói tắt là
Ba La Mật (parami). '
Para'
có nghĩa là
bờ bên kia,
'mi' có nghĩa là đi đến.
Bố
thí Ba La Mật có nghĩa là băng qua con sông
Bố thí (dànanadi)
và đến được
bờ bên kia.
Chữ 'đến được bờ bên kia' quan trọng lắm. Vì sao? Vì có nhiều khi ta bắt đầu
qua sông, nhưng đến
nửa
đường ta lại quay
trở về, đó không gọi là
Ba La Mật.
1.
Ngoài ra
'bờ bên này' còn có nghĩa là bờ
tham lam,
bỏn xẻn, con sông là sự
Bố thí, 'bờ bên kia' là bờ
đại bi
(mahakarunà).
2. 'Bờ bên này' là bờ
tà
kiến chấp
trước (mithyàdrsti), 'bờ bên kia' bờ
Trí huệ (prajnà).
3. 'Bờ bên này' là bờ
sanh
tử luân hồi (Samsàra), 'bờ bên kia' là bờ
Niết Bàn giải thoát
(Nirvàna).
4.
Ngoài ra,
Bồ Tát khi
bố thí thấy rằng sự
bố thí không
sanh, không diệt, không có thiệt, tức là không thấy có người cho, vật được cho,
và người nhận, đó gọi là
Bố
thí Ba La Mật.
Ở chỗ này ta nên dừng lại,
phân
tách một chút, vì
đa số chúng ta đều
lầm lẫn cho rằng mình
Bố thí Ba La Mật nhưng thực sự thì không
phải vậy. Ta thường được nghe giảng trong
Kinh Kim Cang nói rằng
bố thí mà không phải
bố thí thì mới thực
là
bố thí,
hoặc
bố thí
mà
không chấp
nhân, ngã,
chúng sinh,
thọ giả mới
thực là
bố thí,
hoặc
bố thí mà
không thấy ta là người cho, đây là vật được cho, và kia là người nhận mới là
bố thí,v...v...
Chữ
Bố thí
mà 'không thấy' ở đây không có nghĩa là
bố thí mà nhắm mắt lại để khỏi thấy, hoặc
bố thí mà
tâm không dám nghĩ gì
hết. 'Không thấy' ở đây là kết quả của một
sự quán chiếu
nhân duyên thấy được các
pháp không có
tự tánh. Vì thấy các
pháp không có
tự tánh nên thấy sự
bố thí không
có
tự tánh.
Như ta đã
xem qua
ở các phần trước,
bố thí
không thể là một cái gì
tự
nhiên có được, phải có đầy đủ ba
yếu tố (người cho, vật cho, người nhận)
hợp lại mới có nó.
Nếu thiếu một trong ba thì không thể có sự
bố thí. Do đó
bố thí không có thiệt, nó chỉ là
giả danh của một
hợp thể (
yếu tố).
Xa hơn nữa,
ba
yếu tố vừa
kể trên, chúng cũng lại là
giả
danh của một hợp thể nào đó. Như người cho và người nhận là
giả danh của hợp
thể
ngũ uẩn (sắc,
thọ, tưởng, hành, thức), đồ vật được cho là
giả danh của một hợp thể
vô số chất liệu. Và
cứ thế ta
quán chiếu
để thấy không có một
yếu tố
nào có
thực tướng,
nó
hiện hữu
vì
vô số các
yếu tố khác
hiện hữu. Thấy được
như vậy gọi là thấy 'Không' (sùnya). Đem
áp dụng cái thấy 'Không' vào sự
bố thí ta sẽ thấy
không có cái gì thực sự là
bố
thí cả, mà chỉ có một sự
biến chuyển,
diễn tiến,
sinh diệt của
vô số nhân duyên, đây gọi là
Bố thí Ba La Mật.
Chúng ta
nên
cẩn thận,
đừng vội vã hấp tấp
thực
hành 'Bố thí Không', nếu ta chưa thực sự hiểu được 'tánh Không'
(Sùnyatà), hay thấy được sự
duyên
khởi của các pháp.
Tốt hơn là ta nên
thực hành sự
Bố thí trong sạch như đã nói ở phần trước. Còn nếu ta
cố chấp cứ muốn
bố thí theo kiểu (
hiểu lầm)
Kim Cang, tức là
nhắm mắt để khỏi thấy ta, thấy vật, thấy người, hoặc
bố thí mà
tâm không nghĩ gì cả thì đó chẳng khác gì
một người máy 'Rô bô' cầm hộp bánh
bố thí cho một em bé. Đó gọi là
Bố thí Rô bô máy,
chứ không phải là
Bố thí Ba
La Mật !
Dĩ
nhiên là Rô bô chả được
phước báo gì hết !
* Bồ Tát
thực hiện Bố thí Ba La Mật ra
sao?
-
Bồ Tát thực hiện tất cả
các loại bố thí trong sạch,
Tài thí, Nội thí,
Ngoại thí,
Pháp thí
không bao giờ
hối tiếc.
-
Bồ Tát bố thí một cách
bình đẳng với tất
cả mọi loài, không bao giờ nghĩ rằng:
- Phải
bố thí
cho người lớn chứ không cho trẻ em.
- Phải
bố thí
cho người
tu hành
chứ không cho người thường.
- Phải
bố thí
cho người chứ không cho
thú
vật.
- Phải
bố thí
cho
Hòa Thượng
chứ không cho
chú tiểu.
-
Bồ Tát bố thí không cầu
được
phước báo.
-
Bồ Tát bố thí không kể
ngày hay đêm,
mùa đông
hay mùa hè, trời tốt hay trời xấu.
-
Bồ Tát bố thí để
thực hiện thực tướng (bhùtalaksana)
của sự
bố thí.
-oOo-
6. Bố thí và Sáu Ba La Mật
Trong
sáu Ba La Mật
(
Bố thí,
Trì giới,
Nhẫn nhục,
Tinh tấn,
Thiền định,
Trí huệ) thì
Bố thí đứng đầu, vì nó làm
nền tảng cho cả
sáu Ba La
Mật.
I. Bố thí
làm nền tảng cho bố thí
Bố thí gồm có ba
trình độ: hạ,
trung, thượng. Nghĩa là sao?
Khi mới bắt đầu bước chân vào
Bồ Tát đạo,
Bồ Tát tập
bố thí trong sạch, nhưng chỉ
bố thí những đồ vật tầm thường như : đồ ăn,
thức uống,
đèn, dầu,v...v... Đó gọi là
bố
thí hạ (avara).
Từ chỗ luôn luôn
thực
hành bố thí hạ, tâm của
Bồ Tát bắt đầu phát triển,
Bồ Tát tập
bố thí nhiều hơn như : quần áo, thuốc men,
nhà, cửa, vàng, bạc, những món đồ quý giá, v...v... Đó gọi là
bố thí trung
(madhya).
Từ chỗ
thực hành bố thí
trung,
hảo tâm
của
Bồ Tát phát
triển tới mức cùng tột, tức là
bố
thí tất cả những gì mà mình có (nội thí và ngoại thí) không
ngần ngại hay
hối tiếc như: đầu,
mắt, tay, chân, v...v... Đó gọi là
bố thí thượng (
agra).
II. Bố thí
làm nền tảng cho trì giới
Bồ tát biết
rằng nếu ta
tham lam,
bỏn xẻn,
keo kiệt, không bao
giờ biết làm phước
bố thí
cho ai, thì
kiếp sau
ta sẽ chịu cảnh
nghèo khổ.
Vì
nghèo khổ nên
ta có những
ý tưởng
trộm cắp,
lường gạt.Và nếu đi
trộm cắp
hay cướp giật thì ta dễ phạm phải tội giết người. Vì
nghèo khổ nên ta khó có thể
thỏa mãn dục lạc,
dục lạc không được
thỏa mãn thì ta sẽ
dễ phạm vào
tà hạnh
dâm dục.Vì
nghèo khổ nên ta
phải chịu làm những việc hạ tiện, hạ cấp. Vì hạ tiện, hạ cấp nên ta luôn luôn
sợ chủ và ta sẽ dễ phạm phải tội
nói dối, nịnh bợ, v...v... Như vậy, vì
nghèo khổ, ta sẽ dễ
phạm vào
mười điều ác
của thân, miệng, ý.
Ngược lại,
Bồ Tát
nghĩ, nếu
thực hành bố thí,
ta sẽ
tái sinh
trong cảnh
giàu sang,
tiền của đầy
đủ, nhờ đó sẽ dễ
giữ gìn
giới luật.
* Chuyện tích con rắn, con ếch và con rùa (Jàtaka)
Đề Bà Đạt Đa
(Devadatta), trong một
tiền
kiếp xa xưa, là một con rắn. Con rắn này ở trong một cái lạch
cùng với một con ếch và một con rùa, và cả ba con đều làm bạn
giao du với nhau. Thế rồi
một hôm hạn hán, nước ở trong lạch cạn dần và sắp hết, trong lạch chả còn gì để
ăn. Mỗi con chia nhau ra đi kiếm ăn. Vì quá đói không tìm được gì nên con rắn
đã nghĩ chuyện tính ăn con ếch. Nó bèn nhờ con rùa đi tìm con ếch lại nhà nó
chơi. Đến khi rùa gặp được ếch thì ếch
trả lời rằng:
Khi rơi vào cảnh
nghèo
đói,
túng
thiếu
Người ta thường quên hết nghĩa
ban
đầu
Không kể gì đến
đạo đức,
Chỉ biết làm sao
Cho hết đói mà thôi!
Hãy nhớ những gì ta vừa nói và về bảo với rắn rằng: 'Con ếch sẽ không bao
giờ
trở về gặp
rắn nữa đâu!'.
III. Bố thí
làm nền tảng cho nhẩn nhục
1. Khi
Bồ Tát
thực hành hạnh
bố thí mà đối
tượng (người nhận) từ chối,
xua
đuổi, hay đòi hỏi hơn, hoặc xin không
đúng lúc, hoặc không cần xin mà cứ xin. Lúc
đó
Bồ Tát sẽ
nghĩ
như vầy:
'Nay ta
thực hành bố thí,
cốt để cầu
giác ngộ
thành Phật;
không có ai bắt buộc ta phải cho cả.
Bố thí đây là làm cho chính ta, tại sao phải nổi
giận?' Suy tư như vậy,
Bố
Tát thực hành
nhẫn
nhục.
2. Khi
Bồ Tát
bố thí mà
người nhận không bằng lòng,
nổi
giận hay
mắng
chửi, thì
Bồ
Tát lại nghĩ
như
vầy: 'Nay ta cho tất cả những
tài sản quý giá của ta. Ta tập xả bỏ những
gì khó xả bỏ. Có lý đâu ta lại không chịu được những lời
mắng chửi vô nghĩa lý này?
Nếu ta
không nhẫn
nhục thì sự
bố thí
của ta sẽ không
trong sạch.
Bố thí mà
không
kiên nhẫn
cũng giống như con voi trắng (
bạch
tượng), sau khi tắm ở
dưới sông, vừa lên trên bờ lại nằm ềnh ra đất dơ.'
Suy tư như vậy,
Bồ Tát
thực hành nhẫn nhục.
IV. Bố thí
làm nền tảng cho tinh tấn
Trong lúc
thực hành bố
thí,
Bồ Tát
cũng
thực hành
luôn cả
tinh tấn
(Vìrya). Khi mới bắt đầu
thực
hành bố thí,
phước
đức quả báo
của
Bồ Tát rất
ít nên
Bồ Tát
không thể
thực hiện
nhiều sự
bố thí.
Nhưng vì muốn
bố thí
nhiều, cho tất cả mọi loài, nên
Bồ Tát phải
tinh tấn thực hành bố thí. Nhờ
tinh tấn bố thí nên
phước đức (Tài, Pháp) của
Bồ Tát càng
tăng trưởng khiến
Bồ Tát lại càng say
mê
bố thí nhiều
hơn, và cho nhiều người. Cứ thế
Bố thí và
Tinh tấn vừa làm nhân vừa làm duyên cho nhau.
V. Bố thí
làm nền tảng cho thiền định
Người
tu Thiền
định,
ban đầu luôn
luôn gặp phải
năm chướng
ngại (
ngũ cái)
:
tham lam,
giận tức,
hôn trầm,
trạo cử và
nghi hối.
Nếu không diệt trừ được
năm chướng ngại này
thì không thể tiến xa trong
Thiền
định.
Thực hành Bố thí
trong sạch tức
là đang
diệt trừ
năm chướng ngại.
Vì sao?
-
Bố thí
là
diệt trừ tham lam,
bỏn xẻn.
-
Bố thí trong sạch tức có
nhẫn nhục, có
nhẫn nhục thì
tiêu trừ được giận
tức.
- Khi
bố thí
để cầu
quả vị
Phật,
Bồ Tát cần
nhiều Tài và Pháp để có thể
bố
thí rộng rãi
cho tất cả mọi loài. Vì cần nhiều Tài, Pháp nên
Bồ Tát phá trừ được lười biếng,
giải đãi là
nguyên nhân đưa đến
hôn trầm.
- Khi
bố thí
Bồ Tát khởi tâm trong sạch,
tâm kính trọng
người nhận, chú ý đến hành động của mình không dám
suy nghĩ bậy bạ, nên luôn luôn
tỉnh thức không
chạy theo vọng tưởng, do đó
diệt trừ trạo cử.
- Khi
thực hành bố thí,
Bồ Tát biết
chắc là sẽ gặt được
phước
đức quả báo
vô lượng, vì
thế nên
Bồ Tát
luôn luôn tìm cơ hội để
bố
thí. Nhờ
bố
thí nên được nhiều
phước báo và từ đó lại càng tin nơi sự
bố thí. Nhờ
lòng tin vững chắc này
Bồ Tát phá
trừ nghi hối.
VI. Bố thí
làm nền tảng cho trí huệ
1. Nhờ
bố thí
đời này qua đời khác,
Bồ Tát
gặt được nhiều
phước đức,
do đó
Bồ Tát
tin nơi
Tam Bảo,
nhờ tin nơi
Tam Bảo,
Bồ Tát phát tâm học
chánh pháp, nhờ học
chánh pháp,
Bồ Tát phá
trừ tà kiến,và
vô minh, nhờ phá
trừ
vô minh
mà
trí huệ tăng trưởng.
2. Hơn nữa, khi
thực
hành Bố thí Ba
La Mật,
Bồ Tát
luôn luôn suy tư về
thực
tướng của ba
yếu
tố (người cho,vật được cho, người nhận). Nhờ luôn luôn suy tư như
vậy,
Bồ Tát hiểu
được
thực tướng
của Bố thí.
Hiểu được
thực tướng
tức là
trí huệ bát nhã.
3. Tất cả
mười phương
chư Phật đều bắt đầu
con đường giác ngộ bằng một hạnh đầu tiên là
bố thí. Cũng vậy,
một ngàn vị Phật
quá khứ
của
hiền kiếp,
mỗi vị trong lúc
phát Bồ đề
tâm (
tức tâm
cầu
thành Phật)
lần đầu tiên, đều là đang
bố
thí cúng dường
cho một
đức Phật
nào đó: có vị thì
cúng dường
một
hoa sen,
có vị
cúng dường
một cái áo, có vị
cúng dường
một cái tâm xỉa răng, v...v... và trong lúc
cúng dường như vậy, các ngài đều
phát Bồ đề tâm
(bodhicitta). Do đó
Bố thí
là nền tảng của
Phật đạo.
-oOo-
7. Những điều lầm lẫn về bố thí
Qua những phần trước, ta đã có một
ý niệm về thế nào là
bố thí trong sạch, hay không
trong sạch,
đúng đắn hay không
đúng đắn. Nhưng đó là trên
phương diện giáo lý tổng quát.
Sợ có nhiều người
tâm tính
thành thật,
chất phác không
hiểu rõ,
nên trong phần này ta hạy tạm lấy những
thí dụ cụ thể xảy ra
thường xuyên trong đời sống
sinh hoạt của chùa chiền, để
mọi người hiểu rõ hơn.
* Về Pháp thí
:
Thường đi song song với
pháp
thí là sự khinh người. Nếu ta là một vị thầy, thì ta không thể
thực hành tài thí được, mà
chỉ có thể
bố thí Pháp
thôi.
Bố thí pháp
là một việc rất tốt, nhưng
nếu
không khéo thì song song với việc
bố thí ta sẽ nhiễm phải cái tánh khinh
người. Tánh này là một tánh rất xấu, không những
đạo Phật mà tất cả các đạo khác đều khuyên
ta phải trừ bỏ nó. Trong một Hội Đoàn
Phật Giáo,
Tăng già khinh Tăng trẻ, Tăng trẻ khinh
Phật tử già,
Phật tử già khinh
Phật tử trẻ thì
hậu quả của nó sẽ
ra sao?
Hậu quả
sẽ là
Phật tử
trẻ bất kính
Phật tử
già,
Phật tử già
bất kính Tăng trẻ, Tăng trẻ bất kính
Tăng già. Và trong một Hội Đoàn mà từ trên xuống
dưới, từ dưới lên trên có một sự khinh thường và bất kính như
vậy thì chắc là Hội
viên sẽ sớm rút lui.
Đạo
phật không dạy ta khinh người, mà ngược lại dạy ta tánh
bình đẳng, có nghĩa
là
kính trọng
tất cả
mọi người
như nhau.
Xưa kia
đức Phật đâu
có khinh ai, ngay cả đối với một em bé cũng vậy (Xem tích chuyện Asoka).
Chúng ta hãy noi
theo hạnh của
Thường Bất
Khinh Bồ Tát trong
Kinh Pháp Hoa, gặp ai ngài cũng
lễ lạy và nói :
"Tôi chẳng dám khinh quý vị, vì quý vị đều sẽ làm Phật".
Nếu ta có
cơ duyên
học nhiều, hiểu rộng thì khi có người đến
hỏi đạo, ta nên
vui lòng chỉ dẫn. Trong
trường hợp ta bận
tu trì,
tụng niệm hay
nghiên cứu thì ta có thể
dời lại khi khác,
chứ ta không nên khinh người đến hỏi ta, cho họ là
chúng sinh ngu tối không biết gì. Chính vì không
biết nên họ mới đến hỏi, chứ nếu biết rồi thì họ đâu có đến, mà nếu họ không
đến thì làm sao ta có cơ hội
bố
thí pháp?
Vì vậy
ta
cần phải cảm ơn họ. Trước
khi, trong khi và sau khi
bố
thí Pháp, ta cũng nên
phát nguyện và
hồi hướng. Nguyện cho người
hỏi đạo trước mặt ta mau có được
trí huệ sáng suốt và
hồi hướng công đức pháp thí này cho
sự giải thoát luân hồi, hoặc
quả vị Phật (nếu ta
là
Bồ Tát).
Hoặc giả
ta tu lâu năm, có chùa to mà khinh người mới tu, có chùa nhỏ, thì ta
coi chừng sẽ có một
ngày
đức Phật
hiện ra trách mắng ta đó!
Nhưng chỉ sợ lúc đó ta lại không
nhận ra đức Phật, hoặc nếu có
nhận ra đi nữa ta cũng làm bộ nhắm mắt
bịt tai không muốn
nghe. Nếu
vậy thì
đức Phật cũng
phải lắc đầu
chịu thua.
Và nếu ta
để ý
một chút thì ta sẽ thấy danh từ "Tu" rất nguy hiểm, vì nó gây ra
nhiều
hiểu lầm
và
tai hại.
Đối với một người tánh tình chất phác, khi họ nghe nói ta tu lâu rồi, họ sẽ
nể và
kính trọng
ta lắm, vì họ nghĩ rằng ta đã chứng được gì rồi, không chứng được
A La Hán thì chắc
cũng chứng được
Thượng Tọa
hay
Đại Đức.
Trong tâm họ, cho "Tu" là được cái gì, giống như đi lính vậy. Vì đi
lính lâu năm thì được lên chức quan ba, quan năm, có quyền ra oai với lính binh
nhì, binh nhất hay sĩ quan
dự
bị. Nhưng sự thực thì không phải vậy, Tu có nghĩa là sửa.
Thí dụ ta có một
chiếc xe hơi mới mua mà bị hư, thì ta phải sửa nó. Nếu ta là một người thợ giỏi
thì chỉ trong một ngày là ta sửa xong. Nhược bằng sửa năm ngày rồi mà chưa
xong, thì ta quả là một người thợ dở. Trong
trường hợp này, ta sẽ không dám chạy cùng
làng khắp xóm mà la lên rằng: 'Tôi sửa (xe) lâu rồi, tôi sửa lâu rồi'. Cũng như
thế, khi ta nói với
mọi người
rằng ta Tu lâu năm rồi, đó có nghĩa là ta sửa lâu năm rồi. Sửa cái gì? Sửa
những tánh hư, tật xấu, nhất là cái tánh
ngã mạn của ta. Sửa xong chưa?
Ở đây có hai
giả thuyết.
Nếu xong rồi thì ai lại đi nó rằng tôi sửa (tu) lâu! Nếu nói rằng tôi sửa (tu)
lâu tức là chưa xong. Nếu sửa chưa xong thì ta phải biết mắc cở chứ ! Ta tu
theo
đạo Phật
cốt để trừ bỏ cái tánh
ngã
mạn và khinh người của ta, nhưng không khéo ta lại để cho chính
chữ "Tu" nó
đánh
lừa ta, làm cho lòng
ngã mạn, khinh người của ta lại tăng thêm. Nếu
ý thức được sự
tai hại tạo nên do
chữ "Tu" thì ta đừng
ngần
ngại thưa và đề nghị với quý Thầy từ nay trở đi không dùng chữ "Tu"
nữa mà thay thế bằng chữ "Sửa". Hơn nữa chữ "Tu" là một
danh từ Hán việt, còn chữ "Sửa" là tiếng Việt, nó
chính xác,
rõ ràng, và dể hiểu
hơn, và nó lại có
công năng
rất lớn, khiến cho ta
ý thức
được luôn luôn là mình có những tánh hư tật xấu
cần phải sửa cho xong, và cũng diệt được
cái tánh
ngã mạn,
khinh người của ta nữa.
Chỉ có người
dại dột
mới hay khinh người. Vì sao? Vì khinh người tức là khinh mình vậy ! Nếu ta
khinh người thì người sẽ khinh lại ta, đó tức là ta khinh ta.
Nhân quả là thế !
Nếu ta hay khinh người mà lại thích người
kính trọng ta thì không thể có được.
Trừ ra trường hợp ta làm
quan lớn dùng
thế lực
hay quyền hành bắt người khác phải kính phục ta thì có. Ngoài mặt thì họ kính
phục ta, nhưng ta đâu có biết trong tâm họ
chửi rủa ta. Và nếu ta không
biết điều đó thì ta vẫn là kẻ ngu mà thôi !
Trên đây là nói về
Pháp
thí khinh người, đó thuộc vào loại
Pháp thí không
trong sạch (avisuddha dana). Trong
trường hợp ta học
nhiều, hiểu rộng mà lại có tài có
tài ăn nói nữa, thì rất là
may mắn cho
đạo Pháp. Nhưng nếu ta ưa
thuyết pháp với
mục đích cho
mọi người nể ta,
kính trọng ta thì
đó là
Pháp thí
cầu danh, cũng
thuộc vào loại
pháp thí
không
trong sạch.
Trong
sự Pháp
thí không
trong sạch
này,
hiệu quả
của nó cũng có hai loại: lợi và hại. Trước hết là xét về
giáo lý mà ta
bố thí, xem đúng
hay sai với
chánh pháp.
Đúng, là khi người nhận nghe theo đó
hành trì,
tu tâm sửa tánh, tạo
thiện nghiệp (kusalakarma), trong
trường hợp này thì người
nhận được lợi, còn ta chả được gì cả vì lửa
ngã mạn đã đốt hết rừng
công đức Pháp thí của ta.
Trong
trường hợp
giáo lý sai
với
chánh pháp
thì cả hai bên đều bị hại cả.
* Về Tài thí
:
Là
Phật tử
tại gia tức
Ưu bà tắc
(Upàsaka),
Ưu bà di
(Upàsika), ta có bổn phận phải
hộ
trì Tam Bảo, có nghĩa là giúp đỡ và
gìn giữ cho
Phật giáo được dài lâu. Tại sao dài lâu? Vì
ta biết rõ
Phật giáo
dạy ta
con đường
giải thoát,
có
lợi ích cho
tất cả
mọi người
nên ta muốn nó dài lâu.
Tùy
theo khả năng
cá
nhân, ta có thể giúp đỡ,
bố thí tiền của hay
sức lực.
Như ta đã đọc qua các phần trước,
bố thí là một việc rất tốt đem lại nhiều phước báu
cho ta, và
bố thí
lại là một hạnh đầu tiên của
Bồ
Tát. Nhưng
bố
thí mà không biết cách
bố thí thì không đem lại
lợi ích gì cả! Ta hãy tự nhìn lại mình xem,
sau bao năm
bố thí,
bây giờ ta thế nào? Ta bỏ chùa, ở
nhà tu rị (tức là tu
một mình) ta sợ đến chùa vì đến đó có người
ra
quyên tiền
ta, rồi ta
bất mãn
rao lên rằng chùa này làm tiền, chùa kia làm tiền. Tất cả những cái đó có là do
tại ta, vì trước kia ta đã không học cách
bố thí. Gặp Thầy nào
bố thí Thầy đó, nhất là hay ưa
bố thí các Thầy tu
lâu để được phước hay để lấy danh. Rồi Thầy muốn cái gì là ta dâng cái ấy. Dâng
riết đến lúc hết dâng được thì ta
chạy trốn luôn, không dám gặp Thầy nữa.
Khi đến chùa, gặp một việc kêu gọi
bố thí hay
cúng dường thì
ít nhất ta phải suy tư một chút, xem việc đó nếu có
lợi cho Thầy, cho ta, cho
mọi
người thì ta hãy
vui
lòng bố thí.
Nếu việc đó không có lợi cho Thầy, hoặc cho ta mà có lợi cho tất cả
mọi người thì ta
cũng sẵn lòng
bố thí
(trong
trường hợp
ta là
Bồ Tát).
Ngoài ra
đúng
theo như
luật xưa
đức Phật
để lại thì bổn phận của
cận
sự nam (upasaka) và
cận sự nữ (upasika) là
bố thí cúng dường bốn việc cho
chư Tăng : nơi ở, quần áo,
thức ăn và thuốc
men. Nơi ở thì có chùa, ta có thể đóng góp hàng tháng cho Hội, rồi Hội chi phí
cho chùa. Quần áo thì ở xứ
Tây
phương này quý Thầy, người nào cũng rất là đầy đủ.
Thức ăn thì ta
xem chừng, lâu lâu
mua gạo, hay mua rau cải đến
tiếp
tế, hoặc
nếu
không có
thời
giờ thì ta có thể đưa tiền cho vị
Tri khố lo giùm. Còn về thuốc men thì ta cần
lưu ý, vì ở
bên Pháp này quý Thầy không đi làm
chính thức nên không có 'bảo hiểm xã hội' (Sécurité
sociale), tức là khi có bệnh tật gì thì quý Thầy ráng chịu. Vì
lý do đó ta không
nên bắt quý Thầy tụng đám,
cầu
an, cầu siêu nhiều quá, rủi quý Thầy cảm cúm, ho lao ... hay mệnh
hệ nào thì ta không có đủ tiền lo thuốc men, lúc đó ta sẽ
ân hận lắm đấy!
Đa số quý
thầy ngày nay
thường hay
kêu gọi ta đóng góp để làm chùa to. Có nhiều người không hiểu, cho rằng thầy tu
gì mà còn
ham danh
lợi. Sau đó đi rao là chùa làm tiền hoặc chùa giàu, vv... Là
Phật tử chúng ta nên hiểu
rằng quý thầy do
lòng từ
bi muốn độ nhiều
chúng sinh,
đền đáp ơn
Tam Bảo,
hoằng truyền
chánh pháp
mà bất đắc dĩ phải làm như thế. Nếu quý thầy
ích kỷ chỉ lo
ngồi yên trong một cái cốc nhỏtự tu tự độ
thì đỡ khổ cho quý thầy biết mấy. Kêu gọi như vậy vừa nhọc mệt lại thêm
mang tiếng, đâu có
vui thú gì !
* Khi Ta bố thí
cho chùa, ta phải tập
ý
thức việc làm
của ta, có nghĩa là ta biết
lý
do và
mục đích
của sự
bố thí,
còn có nghĩa là ta phải biết
phát
nguyện và
hồi
hướng công đức bố
thí của mình. Được
vậy thì ta sẽ không
ân hận, hay
hối tiếc, mà ngược lại sẽ
cảm thấy vui vẻ và
an tâm. Đây gọi là
Ý thức bố thí.
* Khi bố thí
(cúng dường)
cho quý Thầy. Cũng vậy, ta phải tập
ý thức việc
bố thí của mình. Quý Thầy là đối tượng của
sự
bố thí,
còn gọi là
ruộng phước
(punyaksetra). Vì sao? Vì chính nơi quý Thầy là chỗ để ta gieo
hạt giống phước nên
gọi là
ruộng phước.
- Khi ta
thương hại
hay
tội nghiệp
một vị Thầy nào đó,
tu hành
khổ cực mà ta
bố thí,
thì vị Thầy đó
trở thành
ruộng phước nhỏ,
vì được gieo bởi những
hạt
giống thương
hại (karunà), nên sẽ cho ta cây lúa nhỏ.
- Khi ta
kính trọng
một vị Thầy nào mà ta
bố thí,
thì vị Thầy đó
trở thành
ruộng phước lớn,
vì được gieo bởi những
hạt
giống kính
trọng (satkàra), nên sẽ cho ta những cây lúa lớn.
- Nếu ta vừa
kính trọng
vừa
thương hại
mà
bố thí thì
ta sẽ gặt được cả hai loại lúa lớn có nhỏ có.
Trước khi
cúng dường
cho quý Thầy ta biết được vì
thương
hại hay
kính
trọng, và khi đang
cúng dường ta cũng biết được là ta đang
cúng dường,
cúng dường xong ta
biết
hồi hướng công đức
mà ta vừa tạo cho
sự giải
thoát sinh tử
của mình, hay cho
quả vị
Phật (nếu ta là
Bồ Tát).
Đó gọi là
Bố thí
trong sạch và
ý thức. Ta
đừng
lầm lẫn 'ý
thức' với 'chấp trước'. 'Ý thức' ở đây có nghĩa là
chánh niệm, biết ta đang làm gì, phải làm
gì, sẽ làm gì. Còn
bố thí
chấp trước không
nằm trong
bố thí
trong sạch,
vì khi
bố thí
cho rằng ta đây là người cho, đây là vật
bố thí, còn kia là người nhận, rồi
khởi tâm ngã mạn khinh
người,
hoặc trước
khi
bố thí đã
có cái tâm
cầu danh
hay
ngã mạn rồi,
nên khi vừa
tác động
thì sự
bố thí
đã là
bố thí chấp trước rồi.
- Khi gặp một vị Thầy nào, ta lấy tài của ra gọi là
cúng dường hoặc có nhiều khi ta đưa cho vị
Thầy ấy mà chả nói chả rằng gì cả, thì đó là
bố thí vô tâm và
vô ý thức.
Bố thí vô ý thức ta đã thấy ở trên rồi. Còn
vô tâm là sao?
Vô tâm ở đây cũng
có nghĩa là
vô ý thức
nhưng thêm vào
vô ký
và
vô tư. Ta
học trong
Kinh Kim Cang
thấy nói rằng
bố thí
mà không
bố thí
mới thực là
bố thí,
hoặc
bố thí mà
không thấy có ta là người
bố
thí, đây là vật
bố
thí, và kia là người được
bố thí. Học như vậy xong nên khi
bố thí ta không dám
nghĩ gì cả, vì sợ
suy nghĩ
thì rơi vào
chấp trước,
hoặc có
bố thí
thì làm sao cho nhanh để khỏi kịp
ý thức được
việc làm của mình, hoặc trong lúc
bố thí thì miệng
nói, mắt nhìn chổ khác. Đó gọi là
bố thí vô tâm.
Bố thí vô tâm cũng phát xuất từ một tấm
lòng tốt, nhưng vì
không hiểu đạo nên
phước báo
của nó thuộc loại
hữu lậu.
Ta không nên
lầm lẫn
vô tâm bố thí với
Tánh Không bố thí.
Vô tâm bố thí là
tâm không nghĩ và
không
ý thức được
sự
bố thí
trong lúc đang
bố thí.
Còn
tánh không
bố thí thì
hiểu và
thực hiện
được
tánh Không
của sự
bố thí
trong lúc đang
bố thí.
Tánh Không bố thí chính là
Bố thí Ba La Mật (dànaparamità),
nghĩa là thấy cả ba
yếu tố
tạo ra sự
Bố thí
đều không có
tự tánh.
Trước khi
thực hành
Tánh Không bố thí, ta
cần phải thực tập quán chiếu nhiều về
lý nhân duyên,
tức thấy được sự tương duyên tương sinh của
mọi vật, thấy rằng các pháp phải nương vào
nhau mà
hiện hữu,
nên không có một tự thể riêng biệt. Khi ta
quán chiếu thuần thục về
Tánh Không của các pháp rồi, ta đem
sự quán chiếu đó
áp dụng vào việc
Bố thí, đó gọi là
Tánh Không bố thí.
Khi
thực hành bố thí,
ta hãy nên
thành thực
với chính ta,
xem lại
ta còn
chấp trước
hay
không chấp
trước, có lầm
tánh Không
với
Vô tâm không?
Nếu có thì ta sửa lại, vì đó là việc
nội tâm của mình, bên ngoài không ai hay cả, cũng
không có ai chấm điểm hay thưởng phạt ta cả, chỉ có
chính hành động của ta thưởng phạt ta mà
thôi.
Cũng cần nói thêm về
Tánh
Không (Sùnyata).
Tánh
Không là con dao hai lưỡi. Nếu ta hiểu được nó thì nó giúp ta sớm
chặt đứt các giây
vô minh
trói buộc ta.
Còn ngược lại, nếu ta
hiểu
lầm thì nó sẽ khiến ta tạo những hành động vô phước. Vì thế Cổ
nhơn có câu: 'Thà
chấp có
như
núi Tu Di
còn hơn
chấp không
như hạt cải'. Nếu ta chưa hiểu được
tánh Không thì ta cứ
thực hành hữu tướng bố thí, tức là
phát nguyện,
ý thức, và
hồi hướng, trước khi, trong khi và sau khi
bố thí. Đó gọi là
biết cách
bố thí.
- Trên đây là nói qua
trường
hợp bố thí
vì
thương hại
hay vì
kính trọng
một vị Thầy mà ta
bố thí.
Còn trong
trường hợp
đối với một Thầy từ xa mới đến mà ta chưa
quen biết thì sao? Thì đó lại là một việc dễ xử đối
với ta, vì ta không biết
quá
khứ riêng tư của Thầy đó, nên ta dễ
khởi tâm kính trọng mà
bố thí. Và trong lúc
bố thí ta có thể
nguyện
như vầy:
'Con
thành tâm
cúng dường Thầy,
cầu cho Thầy mau
đắc đạo
để
cứu khổ
chúng sinh'. Ta có thể niệm thầm hoặc
nói thẳng ra ngoài được thì càng tốt. Đây là một sự
bố thí trong sạch và
quả báo của nó sẽ
vô lượng. Vì sao?
Vì người cho
thành tâm
và người nhận được
kính
trọng . Người nhận được
kính trọng hay không là tùy ở nơi tâm người cho. Nếu
ta khôn khéo biết được phước bào do sự
bố thí của mình sẽ
vô lượng hay
hữu lượng tùy ở nơi tâm người cho thì ta sẽ
luôn luôn
khởi tâm
kính trọng người
nhận. Đó là biết cách
bố thí
vậy.
- Bây giờ nếu có
trường
hợp ta không
thương
hại, không
kính
trọng, mà cũng không ưa một vị Thầy nữa thì ta phải làm gì? Có phải
bố thí không?
Ở đây lại là một
vấn đề
khác. Ta cần tự xét lại mình trước. Tại sao không ưa? Không ưa chỗ nào? Sau khi
xét lại
nội tâm
xong ta có thể xin đến gặp vị Thầy đó để giải tỏa những điều thắc mắc đã tạo ra
sự
bất hòa (khi
có một sự
bất hòa
thì cả hai bên đều có lỗi cả). Trong
trường hợp thầy và trò đều có chí cầu tiến và
phục thiện thì tốt
quá. Nhưng nếu cả thầy lẫn trò đều
nhận thấy mình là đúng và người kia sai thì lúc đó
đường
ai nấy đi,
ta được quyền rút lui nhưng phải có
trật tự, nghĩa là không được tạo
khẩu nghiệp. Sau
khi rút lui xong ta nên đi tìm một vị Thầy khác để nương cậy. Vì sao? Vì ta là
một
cận sự nam
hay
cận sự nữ.
Cận sự có
nghĩa là ở gần để giúp đở và
học
hỏi.
Không phải vì không ưa một Thầy mà ta ghét tất cả các Thầy khác. Không phải
vì không ưa một chùa mà ta xa lánh tất cả các chùa khác. Nếu làm như
vậy thì gọi là 'Vơ
đũa cả nắm'.
Thái độ
nầy không tốt vì nó làm cho ta không mở mang được
kiến thức, không
thực hiện được các hạnh tốt,
cùng lúc đó thì cái
gọi là 'ngã kiến' của ta sẽ
tăng
trưởng. Và nếu ta cứ giữ mãi
thái độ 'Vơ đũa cả nắm' thì ta sẽ
biến thành 'Con ếch
ngồi đáy giếng'.
* Lầm lẫn
bố thí với trả công
Bố thí là
một hành động phát ra từ tấm
lòng
thành, muốn cho người nhận được an vui
hạnh phúc.
Còn
trả công
là một hành động vô tình, tức là không có tình nghĩa gì cả, nó
dựa trên một sự đổi
chác.
Khi ta đi ra ngoài đường gặp một người nghèo
xin ăn, ta lấy năm cắc ra cho họ. Ta cho vì
ta
thương hại,
chứ không phải vì người đó làm gì cho ta. Ta cho mà không cần được trả lại, ta
chỉ cần người đó nhận cho là ta đã vui rồi. Đó gọi là
bố thí.
Còn
trả công
thì khác, nó là kết quả của một sự đổi chác.
Thí dụ như ta là ông chủ một hãng. Đến cuối
tháng ta phát tiền cho nhân viên. Hành động phát
tiền của ta không được gọi là
bố thí mà phải gọi
là
trả công.
Vì sao? Vì suốt một tháng vừa qua nhân viên đã làm việc cho ta, nên bây giờ ta
phải trả lương cho họ. Và khi ta đưa tiền cho họ, trong tâm của họ đâu có
mang ơn ta, vì họ
biết đó là
tiền của
họ phải được. Trong tâm ta cũng vậy, tuy nhân viên làm việc
cực nhọc suốt tháng
vừa qua cho sự sản xuất của hãng ta, nhưng ta cũng đâu có
mang ơn họ, vì ta
trả tiền cho họ rồi mà! Giữa hai bên không có tình nghĩa gì hết, cũng không ai
mang ơn ai cả. Ta
đưa tiền vì người kia đưa công, người kia đưa công vì ta đưa tiền.
Sau khi
hiểu rõ
thấy được sự khác biệt giữa
bố
thí và
trả
công rồi, ta hãy
đưa
mắt nhìn về chùa của mình xem sao? Xem mình có phạm cái
lỗi lầm đó không?
Ngày thường ta chả bao giờ đến chùa,
tự nhiên đến
bố thí hay
cúng dường các Thầy. Đến khi trong
gia đình có
cha mẹ chết, lúc đó
ta mới đến chùa thưa thỉnh
lễ
phép rước Thầy về nhà
tụng Kinh cầu siêu cho
cha mẹ ta. Rồi sau khi đám sám xong, ta rút
vài tờ giấy bạc bỏ vào phong bì
cúng dường cho Thầy. Làm xong việc như vậy,
ta ra về thở phào
nhẹ nhõm, trong tâm nghĩ rằng đã làm xong bổn phận đối với
cha mẹ, đã làm xong
bổn phận đối với ông Thầy, và
cùng
lúc lại làm phước nữa chứ! Thử hỏi hành động của ta được gọi là
gì?
Tuy nhiên
trong cuộc thì cũng có người được chút ít. Đó là người được thí, tức ông Thầy :
ông Thầy có được vài trăm bỏ túi đi xe lửa. Vì
lầm lẫn như thế nên ta cứ
tiếp tục bố thí cái kiểu
trả công. Riết rồi
ban đầu Thầy đi xe lửa,
sau đến xe hơi, rồi đến tàu bay. Tới lúc đó thì
ta la lên rằng chùa giàu! Chùa giàu hay
nghèo đều do ta cả. Ta phải tự hỏi ta chứ! Chùa giàu để làm gì? Nghèo để làm
gì? Nếu ta
ý thức
rằng sự phát triển của chùa có lợi cho
chúng ta nên phải cần tài chánh thì ta làm cho chùa
giàu. Còn nếu thấy cần nghèo thì ta làm cho chùa nghèo. Giàu không phải là một
cái tội, nghèo cũng không phải là một cái phước.
Tiền dùng đúng tiền hiền như Phật,
Bạc xài lầm bạc ác hơn ma.
Phật, ma cũng tại người ta
Chớ tiền bạc nó vốn là vô
tri. (Thanh Sĩ)
Ngoài ra ta
phải
thông cảm
cho quý Thầy chứ!
Ban đầu
vì
lòng từ bi
mà Thầy đi cầu siêu. Cầu siêu xong ta lại
bố thí cái kiểu
trả công cho Thầy. Vì sự
si mê của ta, ta đã biến
lòng từ bi của
Thầy,
ban đầu
vô giá,
dần dần xuống giá
còn khoảng hai ba trăm bạc. Rồi
tội nghiệp quý Thầy, cứ phải è cổ ra nhận
tiền của người
chết. Ta đã biến quý Thầy thành giống như các nhà Hòm (pompes de funèbre) tức
là sống nhờ người chết. Thật đáng buồn cho đạo Phật! Sao ta có thể nhẩn tâm
được như vậy?
Nói như vậy không có nghĩa là từ nay về sau ta không
cầu an, cầu siêu
cho
cha mẹ ta,
hoặc cầu siêu xong ta không
trả
công cho quý Thầy nữa. Ta vẫn
tiếp tục làm, nhưng phải biết các, thêm vào
nữa là lâu lâu ta
lui tới
chùa xem trong chùa có cần gì giúp đỡ không thì ta
phát tâm bố thí cúng dường, không phải chờ đến khi có ai chết hay đau
mới tới. Còn trong
trường
hợp rước Thầy đi tụng đám xong mà ta muốn
cúng dường thì ta
phải tập
suy nghĩ
như vầy:
'Thầy đã vì
lòng từ
bi
tụng niệm
cho
cha mẹ
ta,
công ơn thật
vô cùng, ta
chỉ biết
thành tâm
phát nguyện tu học Phật để mau
thoát
sinh tử luân hồi
và
hồi hướng công đức
(
bố thí,
phát nguyện) này
cầu cho
cha mẹ
ta được siêu sanh Cực lạc'. Từ lúc trước khi, trong khi, và sau khi
cúng dường, ta phải
lập đi lập lại như vậy. Ta
thành
tâm,
phát
nguyện và
hồi
hướng,
cùng
lúc đó ta xem vị Thầy
trước mắt tượng trưng cho
Từ bi (chứ không phải thợ tụng) và ta
hết lòng kính trọng. Nếu làm
được như
vậy thì
ta đã biến sự
trả công
thành sự bố thí trong sạch.
* Không phải chỉ có chùa chiền mới là nơi cho ta thực hiện hạnh Bố thí
Ta có thể
thực hiện
bố thí ở khắp
nơi với tất cả mọi loài : như cho con chó một khúc xương, con chim một mẩu bánh
mì, con kiến một hạt đường, v...v....
Cụ thể nhất là khi ta đi ngoài đường
bố thí cho người
xin ăn.
Tuy nhiên khi
bố thí ta cũng phải
tập
bố thí
cho đàng hoàng không được khinh người.
Bố thí đàng hoàng hay
trong sạch là ta biết
phát nguyện,
ý thức, và
hồi hướng trước
khi, trong khi và sau khi
bố
thí.
Thí dụ
như ta gặp một bà lão ở trong góc Metro đứng
xin tiền. Ta lại gần lấy tiền ra, nhưng
không đưa liền, đứng ngay lại sửa soạn
phát nguyện. Có hai
trường hợp:
1) Ta xem đối tượng tức bà lão là một vị
Bồ Tát hóa thân làm
bà già để ta
thực hiện bố thí. Như vậy ta sẽ
phát nguyện thành Phật để
cứu độ chúng sinh và
hồi hướng công đức bố thí này cho
quả vị Phật.
2) Nếu ta không thể xem bà lão là một
hóa thân Bồ Tát được thì ta nguyện
như vầy: 'Nguyện cho bà mau
thoát khỏi cảnh khổ
của sinh, già, bệnh, chết, và ta
hồi hướng công đức bố thí này cầu mau
giải thoát sinh tử, hoặc mau thành Phật' (nếu ta là
Bồ Tát).
Có một điều
lầm lẫn
mà ta hay phạm phải, đó là khi ta không ưa một vị Thầy nào rồi thì ta ngưng
luôn việc
bố thí
! Một vị Thầy không phải là đối tượng
duy nhất của sự
Bố thí. Ta có thể về nhà
bố thí cho con cho cháu, cho
gia đình họ hàng, hay cho
bạn bè,
xa hơn
nữa là
bố thí
cho các Hội
Từ Thiện
(Croix Rouge, Unicef, Médecins du Monde, Médecins sans frontières, ...) hoặc
cho những loài khác như chim, gà, kiến, ... Đối tượng của sự
bố thí rất
rộng rãi và
bao la, quan trọng
ở chỗ là ta có muốn
bố thí
hay không? Nếu muốn thì ta luôn luôn
tìm thấy đối tượng, còn không thì ta sẽ chả thấy ai
là người đáng cho ta
bố thí
cả.
* Ta nên bố thí
trực tiếp
Lâu lâu nhớ đến Phật, ta mua
hoa quả đem vào chùa
cúng dường cho Phật. Nhưng khi vào chùa ta
không nên đưa hết cho vị
Hương
đăng mà nói rằng: 'Này, cô hay chú cúng hộ tôi cho Phật'. Làm như
vậy mất cả tình nghĩa của ta đối với Phật. Và hơn nữa là ta sẽ không có cơ hội
phát nguyện và
hồi hướng công đức của
sự
bố thí.
Như thế thì dù cho ta có mua mấy xe hoa đem vào chùa
cúng Phật, cũng chả được
phước đức gì cả,
nhiều lắm là làm cho chùa thêm
vui
mắt mà thôi. Ở ngoài
đời người ta còn biết nói 'của ít lòng nhiều', huống
chi ta là con Phật mà lại
bố
thí 'của nhiều lòng ít' hay sao?
-oOo-
8. Kết luận
Đọc đến đây ta tự hỏi, chỉ có mỗi một việc
bố thí thôi mà sao
tác giả lại viết ra dài dòng quá vậy? Ta
nên
thông cảm
cho
tác giả vì
những
lý do đã
nêu ra ở phần đầu quyển sách.
Tác
giả bất đắc dĩ phải nói ra dài dòng vì lâu nay ta đã
coi thường hạnh
bố thí, từ chỗ
coi thường ta đi đến
chỗ hiểu
sai lầm,
từ chỗ
sai lầm
ta đã làm liên lụy đến
uy
tín Tam Bảo.
Trong khi đó thì
Bố thí
là một hạnh rất quý, là hạnh của các vĩ nhân, của
Bồ Tát, của Phật.
Tuy nhiên, sau khi đọc xong nếu ta không
thể nhớ hết có bao nhiêu loại
bố
thí, phải
bố
thí kiểu nào cho đúng thì ta có thể
tóm tắt lại
đơn giản ba điều :
phát nguyện,
ý thức, và
hồi hướng. Trước khi
bố thí ta đứng ngay
lại, nhắm mắt
phát nguyện,
không phải đi đâu mà vội, vì việc
bố thí cũng quan
trọng như việc
tụng Kinh vậy.
Phát nguyện xong rồi ta
bố thí, trong lúc
bố thí ta phải chăm chú
cẩn thận xem đối
tượng của ta ( người nhận) cũng như một vị
Bồ Tát hay một
ân nhân vậy. Sau khi
bố thí xong ta nhắm mắt lại một phút để
hồi hướng công đức bố thí cho
sự giải thoát sinh tử, hoặc
vãng sanh Cực lạc (nếu ta tu
Tịnh Độ) hoặc cho
quả vị Phật (nếu ta
là
Bồ Tát).
Việc
phát nguyện
và
hồi hướng rất
là quan trọng. Ta hãy
để ý
xem, cứ sau mỗi thời Kinh ở chùa cũng như bất cứ ở đâu đều có một bài
hồi hướng ngắn.
Nhưng vì đọc quen quá, giống như ăn cơm bữa nên ta chả cần
để ý làm chi cho
mệt.
Tóm lại chúng ta cần
bố thí nhiều, biết
bố thí, tập
bố thí trong sạch, vì
Bố thí (
bao gồm: cho, tặng,
biếu, dâng,
cúng dường)
là một hành động
đẹp đẽ
nhất mà
con người
có thể cho
con người,
và
bố thí cũng
là nền tảng rất quan trọng mà người hành
Bồ Tát đạo không thể
thiếu sót được.
Sau cùng, nếu ta gặp những
Phật
tử mới
quy y Tam
Bảo chưa biết
Bố
thí làm sao, thì ta hãy
vui lòng hướng dẫn và khuyên nhủ họ, còn nếu ta gặp
những
Phật tử
đã
đi chùa
lâu năm mà quên,
lơ là
hay không còn nhớ cách
Bố
thí đứng đắn
thì ta hãy
thực hiện
Pháp thí bằng
cách đưa cho họ xem tập sách này, đó là ta đã góp phần
xây dựng lại
đạo Phật vậy.
Hắc Vân Lộ,
mùa đông năm
Đinh Mão 1988 (Thích Trí Siêu )