ẢNH CHỤP GIA ĐÌNH 14/12/2024

THẦY PHONG THỦY-TỬ VI-TRẠCH CÁT


NHẬN TƯ VẤN: phong thủy-Tử vi và xem ngày tốt xấu các việc::
+Phong thủy Dương trạch và Âm trach. Dương trạch tư vấn Nhà ở; Công trình; Văn phòng; bếp nấu; phòng thờ; phòng ngủ; phòng tắm... hợp phong thủy. Âm trạch tư vấn đặt mộ, lấy hướng trong nghĩa trang hoặc khu mộ gia đình.
+Chọn ngày Tốt các công việc: Xem tuổi xây nhà, sửa nhà; chọn ngày tốt để khởi công, động thổ; nhập trạch. Xem ngày khai trương.Xem tuổi lấy chồng, lấy vợ. Xem ngày cưới, ăn hỏi. Mua sắm ô tô và xe máy.
+Đặt tên cho con; Chọn năm để sinh con. Chọn số, biển số đẹp cho: ô tô; xe máy; điện thoại. Chọn màu sắc hợp tuổi và bản mệnh.
Xem Tử vi: Dự đoán vận mệnh cuộc đời-Dự đoán năm lấy vợ, lấy chồng. Đại tiểu vận làm ăn tốt; Dự báo tang ma, ốm đau, vận hạn và Hóa giải đề cuộc sống tốt đẹp hơn.



Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

MỖI NGÔI NHÀ KHI ĐÃ QUA VẬN ,CÓ NÊN THAY ĐỔI TRẠCH VẬN HAY KHÔNG?

 


MỖI NGÔI NHÀ KHI ĐÃ QUA VẬN ,CÓ NÊN THAY ĐỔI TRẠCH VẬN HAY KHÔNG?

XIN TẶNG CÁC THÀNH VIÊN BÀI VIẾT NÀY.....VỚI CỤM TỪ HOÁN THIÊN TÂM-THÔNG THẬP ĐẠO....

《淺談玄空風水學說中的換天心》
Bàn sơ về khái niệm “Hoán Thiên Tâm” trong học thuyết Phong thủy Huyền Không
在風水界中,對「換天心」這概念莫衷一是,尤其一些對《易》學缺乏認識的同道,就更視「換天心」為洪水猛獸,無法面對、亦無從入手。
→ Trong giới phong thủy, đối với khái niệm “hoán thiên tâm” vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt là những người thiếu hiểu biết về Kinh Dịch lại càng xem “hoán thiên tâm” như mãnh thú, không dám đối diện cũng không biết bắt đầu từ đâu.
其實,在「換天心」這概念裡牽涉到很多玄空風水學中既是基礎但又極為重要的概念。
→ Thật ra, khái niệm “hoán thiên tâm” liên quan đến nhiều nguyên lý cơ bản nhưng vô cùng quan trọng trong Huyền Không phong thủy học.
在玄空風水學的理念當中,有「小玄空」及「大玄空」之分別。小玄空即陰、陽二宅風水,而大玄空即一地一國之地運風水。在小玄空及大玄空的學說中,對「天心」的態度亦有不同。
→ Trong hệ thống lý luận của Huyền Không phong thủy, có phân biệt “Tiểu Huyền Không” và “Đại Huyền Không”. “Tiểu Huyền Không” ám chỉ phong thủy dương trạch và âm trạch, còn “Đại Huyền Không” chỉ vận khí đất đai của một vùng hay quốc gia. Do đó, thái độ đối với “Thiên Tâm” cũng có sự khác biệt giữa hai phạm trù này.
究竟什麼才是「天心」呢?
→ Rốt cuộc “Thiên Tâm” là gì?
在陽宅中,「天心」究竟是否就如坊間所述,是在陽宅的中央、抑或又在天花板呢?
→ Trong Dương trạch, “Thiên Tâm” có thật sự là trung tâm ngôi nhà, hoặc trên trần nhà như dân gian truyền miệng?
在陽宅的中央動土、或拆改天花板,是否便可完成「換天心」呢?
→ Liệu việc động thổ ở trung tâm dương trạch hay thay đổi trần nhà có thật sự hoàn tất việc “hoán thiên tâm”?
緣生相信這都是風水研究者關切的問題。
→ Tác giả cho rằng đây là những câu hỏi mà người nghiên cứu phong thủy đều quan tâm.
蔣公大鴻,被稱為玄空風水學的祖師;在他的《天元五歌‧總論》中開首即提及:
→ Tưởng Công Đại Hồng, được tôn xưng là tổ sư của Huyền Không phong thủy học; trong phần mở đầu của tác phẩm 《Thiên Nguyên Ngũ Ca‧Tổng Luận》 đã viết rằng:
「一元浩氣涵三象,混沌初開氣升降。
天清地濁成兩儀,陰陽互根氣來往。
山川土石象中氣,日月星辰氣中象。
二氣相絕不相離,濁陰本是清陽相。
唯有人為萬物靈,品配乾坤號參兩。
一人自具一天地,卓立三才不相讓。」
→ “Nhất nguyên hạo khí hàm tam tượng, hỗn độn sơ khai khí thăng giáng.
Thiên thanh địa trọc thành lưỡng nghi, âm dương hỗ căn khí lai vãng.
Sơn xuyên thổ thạch tượng trung khí, nhật nguyệt tinh thần khí trung tượng.
Nhị khí tương tuyệt bất tương ly, trọc âm bản thị thanh dương tướng.
Duy hữu nhân vi vạn vật linh, phẩm phối càn khôn hiệu tam lưỡng.
Nhất nhân tự cụ nhất thiên địa, trác lập tam tài bất tương nhượng.”
→ Tạm dịch nghĩa:
“Khí nguyên sơ bao trùm tam tượng, khi hỗn độn sơ khai khí luân chuyển thăng giáng.
Trời trong đất đục thành hai cực (âm dương), âm dương nương nhau mà khí lưu động.
Sông núi đất đá biểu tượng khí trung gian, mặt trời mặt trăng tinh tú là hình tượng của khí.
Hai luồng khí tưởng tách biệt nhưng không lìa nhau, trọc âm thực ra là thanh dương phản chiếu.
Chỉ có con người là linh vật trong muôn loài, phẩm cách phối hợp với Càn Khôn gọi là tam lưỡng.
Một con người tự thân mang thiên địa, đứng vững trong ba tài (Thiên – Địa – Nhân) không chịu thua kém.”
其中就已經壓根兒和盤托出了「天心」的道理。
→ Trong đó đã trình bày trọn vẹn cốt lõi nguyên lý của khái niệm “Thiên Tâm”.
在玄空風水學中有一部份學理被稱為「換天心」;正如命理學中會由人之八字來判斷其吉凶,玄空風水則會用單位之宅命來判斷其衰旺。
→ Trong học thuyết Huyền Không phong thủy có một phần học lý gọi là “hoán thiên tâm”; tương tự như trong mệnh lý học dùng bát tự để đoán cát hung, thì Huyền Không phong thủy dùng “trạch mệnh” của đơn vị để đoán suy vượng.
例如當某住宅單位被建成之後,此單位內便會出現一組氣運數據在流轉,年復年地影響此宅,這組數據稱之為「宅命」。
→ Ví dụ: khi một đơn vị nhà ở được xây dựng xong, bên trong nó sẽ bắt đầu hình thành một hệ thống dữ liệu khí vận vận hành luân lưu theo năm tháng, ảnh hưởng lâu dài đến căn nhà. Tập hợp dữ liệu đó gọi là “Trạch Mệnh”.
舉例,如有一單位是在六、七十年代時建成的話,此樓宇單位被稱之為「六運樓」(1964–1983),當宅主在當時入伙之後如一直沒在間隔上做一個“特定程序”,就算居住至2008年,當時的氣運數據仍然有效,影響力一直橫跨數十年。
→ Lấy ví dụ: nếu một căn hộ được xây dựng vào thập niên 60 hoặc 70, thì nó được gọi là “lầu Lục Vận” (tức từ năm 1964–1983). Nếu chủ nhà dọn vào ở từ lúc đó và trong suốt thời gian không thực hiện “thủ tục đặc định” nào về thay đổi kết cấu, thì dù đến năm 2008, hệ thống khí vận ban đầu vẫn còn hiệu lực, tiếp tục ảnh hưởng kéo dài hàng chục năm.
但假若宅主在八運(2004–2023)時作了某種裝修或更改間隔,如果是合乎提及程序的要求,全組數據便會改變;
→ Nhưng nếu trong thời kỳ Bát Vận (2004–2023), chủ nhà có tiến hành một số tu sửa hoặc thay đổi bố cục nội thất, và những thay đổi đó đáp ứng điều kiện của thủ tục “hoán thiên tâm”, thì toàn bộ dữ liệu khí vận sẽ thay đổi;
當此轉變完成之後,在廿四小時內有關全部數據便會一次過改變,速度快而不用等,吉凶立刻改變。
→ Khi sự thay đổi hoàn tất, chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, tất cả dữ liệu liên quan sẽ đồng loạt chuyển đổi, tốc độ nhanh, không cần chờ đợi, cát hung sẽ thay đổi ngay lập tức.
在剛過去的2004年其實是一個很重要的時間分界線,因為由1984年至2003年是風水學被稱為的下元七運,而2004年之後便開始進入被稱為的下元八運。
→ Năm 2004 là một ranh giới thời vận rất quan trọng. Bởi vì từ năm 1984 đến 2003 là thời kỳ “Hạ Nguyên Thất Vận” theo phong thủy học, còn từ 2004 trở đi là thời kỳ “Hạ Nguyên Bát Vận”.
在2004年之後,如果大家的商店或家居作了一個裝修工程或更動了人事的間隔,而又剛巧合乎“換天心”的工序,有關單位便有機會在廿四小時內由衰轉旺,但此情況是可以相反的。
→ Sau năm 2004, nếu cửa hàng hay nhà ở của quý vị có thực hiện công trình tu sửa hoặc thay đổi không gian nhân sự, mà tình cờ phù hợp với quy trình “hoán thiên tâm”, thì đơn vị đó có thể chỉ trong 24 giờ từ suy chuyển sang vượng — tuy nhiên cũng có thể ngược lại.
因為當換天心完成之後,有關單位亦可能由吉宅馬上轉變為凶宅。
→ Bởi vì sau khi hoán thiên tâm được thực hiện, cũng có khả năng căn hộ từ cát biến thành hung.
在這種情況下,因為元運已經轉了,是絕不可以變回從前的模樣,因為舊運可以換新運,新運不可能轉回換舊運,是沒有辦法還原的。
→ Trong trường hợp này, vì nguyên vận đã chuyển, thì tuyệt đối không thể trở về hình thái ban đầu; bởi vì vận cũ có thể đổi sang vận mới, nhưng vận mới không thể quay lại vận cũ — không thể phục nguyên.
一個精湛的玄空風水師,是應該懂得如何在一宅大裝修之後仍然保持以前的元運不變的;當然,這是需要十分充足的經驗。
→ Một phong thủy sư Huyền Không có tay nghề cao phải hiểu được cách làm sao để sau khi đại tu bố cục một căn nhà, vẫn giữ nguyên nguyên vận cũ — dĩ nhiên, điều này đòi hỏi kinh nghiệm cực kỳ phong phú.
相信對於熱心研究玄空風水的朋友,這篇文章會是一個十分重要的啟示。
→ Tin rằng đối với những bạn hữu tâm huyết nghiên cứu phong thủy Huyền Không, bài viết này sẽ là một sự khai sáng rất quan trọng. (Bản Dịch Gia Vu)

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2025

Tu đúng mới có kết quả tốt

 


CHÚ ĐẠI BI, NIỆM PHẬT, ĐỊA TẠNG – TU ĐÚNG MỚI CÓ KẾT QUẢ 

🪷
Trong Phật pháp, mỗi bộ Kinh, mỗi câu chú, mỗi danh hiệu chư Phật, Bồ Tát đều có bổn nguyện riêng. Hiểu đúng thì công đức viên mãn, hiểu sai thì công phu trở thành uổng phí. Điều này, tiếc thay, rất nhiều người đang nhầm lẫn!

1. Vì sao tụng Chú Đại Bi không đưa về Cực Lạc?
Chú Đại Bi xuất phát từ Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài phát nguyện cứu khổ cứu nạn, giúp chúng sinh lìa tai ương, bệnh tật, hiểm nguy trong đời này. Cho nên, khi bạn thành tâm tụng Chú Đại Bi, cảm ứng là tiêu bệnh, tiêu tai, gia đạo bình an, đúng bổn nguyện của Ngài.
Nhưng nếu bạn tụng Chú Đại Bi mà mong vãng sanh Cực Lạc? Không đúng bổn nguyện, nên không được tiếp dẫn về Tây Phương, nếu có lâm chung về được cao lắm là cõi Trời

2. Niệm A Di Đà để làm gì?
Đức A Di Đà phát 48 đại nguyện để tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc. Muốn được Ngài rước, bạn phải:
•Niệm danh hiệu Ngài, đủ Tín – Nguyện – Hạnh.
•Lúc lâm chung giữ chánh niệm, phát nguyện rõ ràng.
Niệm A Di Đà không phải để thoát nạn nhanh nhất, mà để vãng sanh sau khi mạng chung. Nên nhớ, thọ mạng chưa hết, dù niệm Phật hay tụng Chú vẫn còn sống, thọ mạng hết rồi, không ai kéo dài được, kể cả Ngài Quan Âm hay A Di Đà.

3. Địa Tạng Bồ Tát cứu ai?
Ngài Địa Tạng phát đại nguyện: “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật.” Nghĩa là:
•Chuyên cứu chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
•Nếu bạn muốn siêu độ ông bà, cha mẹ, vong linh thai nhi, thì tụng Kinh Địa Tạng là hợp bổn nguyện nhất. Và ngài chỉ cứu lên đến cõi Trời là hết.

4. Vấn đề nhiều người mắc phải
Có người tụng Chú Đại Bi cầu vãng sanh → không đúng.
Có người niệm A Di Đà cầu hết bệnh ngay lập tức → không đúng, hoặc niệm Phật để cứu người ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ cũng không được, vì đó không phải hạnh nguyện của ngài.
Có người đọc Địa Tạng mà mong qua Tây Phương → không hợp nguyện lực.
Mỗi pháp môn, mỗi vị Phật, Bồ Tát có bổn nguyện khác nhau. Hãy tu đúng thì mới cảm ứng.
 
5. Ví dụ thực tế – Để hiểu cho rõ
•Người xuất gia, các thầy, các sư cô ở chùa đã phát tâm giải thoát nên thường tu thiền định hoặc niệm Phật đến nhất tâm bất loạn.
Nhất tâm thì không còn nghĩ bậy, không còn trôi lăn, đó là nhân để ra khỏi luân hồi sinh tử.
•Người tại gia, người trẻ, còn gia đình, còn sự nghiệp: Không phải cứ muốn vãng sanh là được ngay vì khi trong thân còn thọ mạng thì có muốn ch ết muốn vãng sanh thì cũng không ngay được. Tu từ bi, giữ giới, tụng chú, tụng kinh, lạy sám hối, cầu bình an, gia đình hạnh phúc… nhưng đừng quên gieo nhân niệm Phật hằng ngày, phát nguyện vãng sanh.
•Muốn báo hiếu ông bà, siêu độ vong linh: Tụng Kinh Địa Tạng, làm phước hồi hướng.
Cuối mỗi thời Kinh, đều có phần hồi hướng có niệm Phật, hồi hướng kèm nguyện vãng sanh Tây Phương, để dù làm việc thiện nào cũng không lạc khỏi mục tiêu giải thoát.
Đời người vô thường. Không ai biết lúc nào ra đi. Hôm nay khỏe mạnh, mai có thể nằm giường bệnh.

 Vậy nên:
•Tụng Chú Đại Bi để cầu bình an cho hiện tại.
•Niệm thêm A Di Đà để gieo nhân vãng sanh cho tương lai.
•Tụng Kinh Địa Tạng để báo hiếu, siêu độ, tích phước cho cả mình và người thân.
Một người trí tuệ không cố chấp một pháp môn, mà hiểu căn cơ, hoàn cảnh, mục tiêu, rồi tu đúng, tu đủ, tu rộng để đời này an lành, đời sau giải thoát.
Đừng khư khư một pháp, đừng bảo chỉ Chú Đại Bi là nhất, hay chỉ Niệm Phật là đủ.
Mỗi pháp môn là một con đường. Hiểu nguyện lực của chư Phật – Bồ Tát, thực hành đúng pháp, mới thật sự được lợi ích lớn lao.
Phật pháp không gò bó ai vào một lối. Chỉ cần tu đúng nhân, quả sẽ đến đúng hẹn.
Nói thì dễ, hành mới khó. Đường tu là đường dài, không thể vài ngày mà thành tựu. Chỉ cần phát tâm kiên định, bền bỉ, hôm nay một chút, mai một chút, nhất định sẽ đến bờ an lạc.
🙏
 Nam Mô A Di Đà Phật
🙏
 Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
🙏
 Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2025

Tại Sao Hóa Kị (trong tử vi) là sao xấu?


 

Luận giải sao Hóa Kỵ

         Sao Hóa Kỵ là âm tinh cho nên đi với các sao chỉ bộ phận nào của cơ thể (lá số tử vi) đều gây trục trặc cho bộ phận đó. Chỉ có thể nói gây trục trặc mà thôi, chứ chưa hẳn làm cho bộ phận đó bị thương tàn.

Hóa Kỵ chủ về điều tiếng, kiện tụng, thị phi, pháp luật vậy nên cần luôn hết sức cẩn trọng trong lời ăn, tiếng nói, hành động.

Hóa Kỵ hành thủy vậy nên cần cẩn thận chuyện sông nước, máu huyết. Ngoài ra là các bệnh về tinh thần như thần kinh, trầm cảm…

         Sao Hóa Kỵ là 1 trong 4 sao trong bộ "Tứ hóa " của Tử vi:  (Tứ Hóa gồm Hóa Lộc – Hóa Quyền – Hóa Khoa – Hóa Kỵ). 

         Tuy cùng nằm trong một gia đình nhưng Hóa Kỵ khác xa với ba người anh em còn lại, thường hay bị người đời ruồng bỏ hay khó chịu khi đóng tại bất cứ đâu. Từ “Hóa” có ý nghĩa chính là sự biến đổi, chuyển hóa, trở thành, “Kỵ” có bộ thủ là “Tâm”, ý tượng là sự ghen ghét, sợt sệt, kiêng cữ. Vì vậy mà khi hợp lại, Hóa Kỵ có ý tượng như một màng lọc, một lớp trung gian, chuyển biến, biến mọi thứ đi qua trở nên xảo quyệt, thâm trầm hơn, dễ bị ganh ghét, trở ngại tại bất kì nơi nào nó đóng.

Với đặc tính ngũ hành thuộc Thủy, chủ sự thâm trầm, lặng xuống dưới, Hóa Kỵ có xu hướng hướng nội cao, luôn chủ đích thu hút mọi thứ vào bên trong mình, không muốn chia sẻ ra bên ngoài, không quan tâm nhiều tới thế giới xung quanh. Chính vì vậy mà khi người ngoài nhìn vào thường cho rằng Hóa Kỵ là sự thâm trầm, ích kỷ, xảo quyệt, kẻ chỉ biết quan tâm tới lợi ích mình mình, không quan tâm hay để ý đến người khác nghĩ gì, cứ làm theo đúng ý mình, cũng kể từ đó mà thị phi, điều tiếng cũng bắt đầu phát sinh, trở thành một chiếc áo khoác ngoài mà không mấy ai mảy may muốn mặc lên…Cũng như thế, khi đi cùng các sao cát tinh thì Hóa Kỵ xuất hiện như một hố đen không đáy, thu hết mọi thứ vào bên trong, gây cản trở và không cho những đặc tính tốt được bộc phát ra ngoài. Với các sao văn tinh học hành như Xương Khúc, Khôi Việt, LN Văn Tinh…thì Hóa gây nên sự không được may mắn trong con đường học hành công danh, bằng cấp học xong không dùng tới…Với phúc thiện tinh như Quang Quý, Quan Phúc, Thiên Đồng…thì Hóa Kỵ thường biến thành sự không được may mắn, làm phúc phải tội, hay gặp những cảnh ngang trái dù mình thiện lương, không làm gì…Khi học cùng những sát bại tinh, chiếc áo khoác này càng trở nên phù hợp hơn, biến chúng thành một thể đồng nhất, có sức phá tán mãnh liệt khi đi tới bất kì đâu, đem tới những thị phi, tai tiếng, tù đày, bệnh tật, đôi khi xấu hơn có thể còn vong cả mạng.

Tại vị trí đắc địa ở bốn cung Tứ Mộ, Hóa Kỵ trở nên đắc địa. Theo ý kiến chủ quan của tác giả đánh giá là bởi vì khi đó Hóa Kỵ được chế ngự bởi ngũ hành của bốn cung Mộ (Thổ chế Thủy), hơn thế nữa là bởi đặc tính của Mộ, chủ về sự chôn cất, nằm im, giữ nguyên, Hóa Kỵ được cất giấu và khóa sâu dưới lòng đất, chính vì vậy mà khả năng tác quái của nó không được bộc lộ mà được cất giữ bên trong, chỉ là những toan tính trong đầu, trở thành một kẻ nhiều mưu mô, khôn ngoan, khéo léo, không ai qua được mắt. Không những thế, tại bốn nơi này, khi Hóa Kỵ đắc địa đi cùng với 3 người anh em còn lại (Hóa Lộc – Hóa Quyền – Hóa Khoa) thì trở nên vô cùng đẹp, đi với Hóa Lộc thì trở nên vô cùng khôn ngoan, khéo léo, nhanh nhạy, nhiều mưu mẹo để kiếm ra tiền, đi với Hóa Quyền thì trở nên quyền uy, sắc sảo, ai cũng nể sợ, đi cùng Hóa Khoa thì trở nên uyên thâm, uyên bác, có kiến thức chuyên sâu, vững chắc…

Ở một góc nhìn khác, với đặc trưng được an theo vị trí các sao mà Thiên Can của tuổi quy định, Hóa Kỵ được ông trời sắp đặt như một sự cản trở, giảm sút đối với những ai không hợp thời, xu thế của thời đại đó. Vậy nên ngoài ý nghĩa gây những sự cản trở như đã nói ở trên, từ “Kỵ” theo nghĩa Hán Việt còn là sự kiêng cữ, giảm chế, cũng giống như “Ngày Kỵ” thì nên tránh làm các việc trọng đại vậy, qua đó khi Hóa Kỵ đóng đâu cũng luôn đi kèm là lời khuyên của bậc thánh nhân rằng nơi đó nên có sự giảm chế, cẩn thận, tránh làm quá lên kẻo mắc họa vào thân…

Vị trí ở các cung:

Đắc địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Hãm địa: Tý, Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi.

  • Ngũ hành: Thuộc Thủy.
  • Hóa khí: Ác Tinh, Ám Tinh.
  • Đặc tính: Thâm trầm, xảo quyệt, ganh ghét, trở ngại, đố kỵ, thị phi, hiểu lầm.

Hóa Kỵ ở cung Mệnh

Về tính tình

Hóa Kỵ thủ cung Mệnh là người có tính tình thâm trầm, thâm hiểm, ích kỷ, đa nghi, hay đố kỵ, ganh tị, ghen ghét người khác, và cũng hay gây sự với người ta. Nếu đắc địa và gặp các sao tốt thì trở thành người khôn ngoan, sâu sắc, có tay nghề sắc sảo, đặc biệt, tính tình cẩn trọng, được nhiều người kính nể.

Hóa Kỵ chủ là về cái lưỡi, là ám tinh nên là người thường không hay cẩn trọng lời nói, dễ lỡ lời, đặc biệt khi đi cùng với Cự Môn.

Với bản chất có xu hướng thu vào trong, Hóa Kỵ thủ Mệnh thường là người hay có thói quen thích đi vào sự chi tiết, chi ly, đào sâu một vấn đề, không có nhiều sao tốt đi cùng hóa giải thì dễ trở nên vụn vặt, thiếu sự tổng quát, nhìn xa trông rộng.

Người có lối sống nội tâm cao, hay thu mình vào, ít có sự quan tâm, chia sẻ với người khác.

Về công danh tài lộc

Hóa Kỵ có tính thu vào, nên khi thủ Mệnh người ta thường ích kỷ, khó hòa nhập với môi trường xung quanh, vì vậy mà công danh và học tập thường khó được phát triển. Chỉ duy khi Hóa Kỵ đắc địa, đi cùng nhiều cát tinh và ba người anh em Tứ Hóa thì công danh tài lộc sẽ dễ thuận lợi và phát triển hơn.

Người trong cuộc sống dễ nhiều điều tiếng, thị phi, sự ghen ghét, do vậy mà gặp nhiều cản trở.

Về bệnh tật, tai họa

Hóa Kỵ là cái lưỡi nên khi thủ Mệnh là người dễ mắc chuyện cãi vã, thị phi, nặng hơn là kiện tụng.

Ngoài ra, đi cùng ngũ hành Thủy, vậy nên cần cẩn thận chuyện sông nước kẻo thận mắc họa.

Với tính chất hướng nội, Hóa Kỵ còn thể hiện các bệnh tật liên quan tới thần kinh, tinh thần, dễ mắc các bệnh như trầm cảm, thần kinh, càng rõ rệt hơn khi có những sao đi cùng như Thái Dương, Linh Hỏa…

Hóa Kỵ ở các cung khác

 Ở cung Phụ Mẫu

Hóa Kỵ thủ cung Phụ Mẫu thì cha mẹ bất hòa, xung khắc, nếu không thì cha mẹ và con cũng không hạp tính nhau. Càng đi với sát tinh thì ý nghĩa càng nặng.

Cha mẹ có người dễ mắc bệnh liên quan tới thần kinh, trầm cảm…

Cha mẹ và con cái hay bất hòa, cãi nhau. Bản thân cũng không hay quan tâm, chăm sóc mẹ cha.

Hóa Kỵ đắc địa thì cha mẹ là người khôn ngoan, sắc sảo, nhiều mưu kế, bản thân làm gì cũng khó lòng lọt qua được mắt của cha mẹ.

 Ở cung Phúc Đức

Hóa Kỵ thủ cung Phúc thì kém may mắn, bị giảm thọ. Người hay làm phúc phải tội.

Người hay gặp nhiều tai vạ, thị phi với họ hàng của mình.

Người ít quan tâm tới chuyện thờ cúng tổ tiên. Mồ mả tổ tiên, ông bà có nơi bị úng thủy, ngập nước.

Trong dòng họ có người bị điên, bị bệnh về thần kinh, tâm thần hoặc bị bệnh phù thủng.

Dòng họ có tay nghề khéo, có danh tiếng, nhưng hay bị cạnh tranh, gặp chuyện thị phi, nói xấu. Gặp các sao Địa Không, Địa Kiếp, thời vận giòng họ suy bại, nghèo nàn.

Người dễ bất hòa với cha mẹ bên vợ, bên chồng. Giảm nhân duyên vói người hôn phối

 Ở cung Điền Trạch

Hóa Kỵ thủ cung Điền thì trong đời, phải có lần bán nhà, hoặc bán đất, phá sản.

Người không quan tâm, chăm sóc chuyện nhà cửa, đất cát.

Phong thủy bếp ở nhà thường không được tốt. Gia đình thường cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt, hay xảy ra xung đột.

Người hay xảy ra mẫu thuẫn, cãi cọ với hàng xóm xung quanh. Nhà hay gần những nơi ồn ào, náo nhiệt.

Nhà thường hay bị ngập nước, ẩm thấp, gần cống rãnh, sông ngòi bốc mùi.

 Ở cung Quan Lộc

Hóa Kỵ cư cung Quan chủ sự trắc trở về công danh, chậm thăng tiến.

Người dễ bị chèn ép, bị tiểu nhân dèm pha, không được cấp trên tín nhiệm, bất đắc chí trong quan trường.

Chính mình cũng hay dùng tiểu xảo để hãm hại, chơi xấu đồng nghiệp.

Người trong công việc liên quan nhiều tới tai tiếng, thị phi, pháp luật, có thể liên quan tới nghề báo, pháp luật…thì giảm chế được một phần tác họa.

Người trong công việc thường mang tính cá nhân, đặt nặng lợi ích của mình lên trước, sẵn sàng giành giật, xô đẩy người khác để đạt được mục đích của mình.

Người trong công việc hay phải căng thẳng đầu óc, dễ mắc bệnh về thần kinh, trầm cảm.

 Ở cung Nô Bộc

Hóa Kỵ thủ cung Nô thì bè bạn, nhân viên, đồng nghiệp, người giúp việc hay nói xấu, oán hại mình. Gặp các sao Phá Quân, Tang Môn, làm ơn nên oán.

Hóa Kỵ thủ cung Nô là người hay mắc thị phi, kiện tụng với bạn bè, đồng nghiệp. Người dễ mắc tai tiếng, đàm tiếu với bệnh nhân, học trò của mình.

Người khó kết hợp, liên kết được với bạn bè, đồng nghiệp, mỗi người một cái tôi riêng, khó bền chặt.

Đào Hồng, Mộc Dục, Hóa Kỵ thì lắm duyên nghiệp với bạn bè khác giới, dễ hay xảy ra chuyện bồ bịch, trai gái yêu đương lăng nhăng, nhất là khi đã cưới vợ, cưới chồng.

Ở cung Thiên Di

Hóa Kỵ thủ cung Thiên Di là người ra ngoài gặp nhiều tai tiếng, thị phi.

Người ra ngoài thường hơi ích kỉ, chỉ biết mình mình, không quan tâm tới người khác xung quanh, do đó mà thường dễ hay bị người đời ghen ghét, đàm tiếu.

Làm phúc phải tội, dễ hay bị hiểu lầm, họa toàn từ miệng mà ra. Làm gì cũng bị người khác soi mói, chỉ trích.

Người hay lui tới những nơi ồn ào, lắm thị phi, kiện tụng như ngoài chợ, ăn uống nhậu nhẹt, tòa án…Đi cùng Thái Tuế, Thiên Hình, Bạch Hổ, Quan Phù, Quan Phủ thì dễ bị liên quan tới pháp luật, kiện tụng.

Ở cung Tật Ách

Sao Hóa Kỵ đóng trong Tật Ách thì là người hay bị bệnh tật, tai nạn, khó sinh đẻ, đau mắt, yếu về khí huyết, dễ bị đau bụng, đau ở bộ phận tiêu hóa, đường ruột, đại tràng, bệnh trỉ hoặc bị ngộ độc do thức ăn.

Hội nhiều ám tinh như Riêu, Đà, Linh Hỏa, Âm Dương, Thiên Đồng có thể dễ mắc bệnh tâm linh, bị cơ hành, dở điên dở dại.

Hóa Kỵ với Nhật hay Nguyệt ở bất luận cung nào thì cũng bị mắt kém hoặc cận thị, viễn thị, hay đau mắt, Hóa Kỵ đi với mắt nào thì mắt bên đó bị trục trặc.

Hóa Kỵ đồng  Cự Môn: Miệng méo, nói nhiều, hay bị vạ miệng, thị phi.

Hóa Kỵ, Kình Dương hay Đà La: Hay ù tai, cứng tai, đôi khi bị điếc, có tật ở chân tay.

Hóa Kỵ gặp Đại Hao, Tiểu Hao: Hay đau bụng, tiêu chảy, máu huyết.

Hóa Kỵ, Thai thì bào thai không được khỏe, dễ xẩy.

Hóa Kỵ với Nguyệt (nữ mệnh): Người nữ máu huyết xấu, có hại cho sự thụ thai, đẻ con dễ bị băng huyết.

Hóa Kỵ, Thiên Riêu: Đàn ông thận suy, dương hư, dễ bị ma tà nhập.

Hóa Kỵ thủ cung Tật là người dễ bất hòa với con rể, con dâu.

Ngày chết của mình dễ xảy ra tranh cãi, chửi nhau…

 Ở cung Tài Bạch

Hóa Kỵ cư Tài thì hao tán tiền bạc.

Hóa Kỵ, Phục Binh bị trộm cắp, bị người ở lấy của hoặc ngược lại.

Người hay đặt nặng nhiều vào lợi ích và chuyện tiền bạc của mình, do vậy mà hay mắc tai tiếng, thị phi, kiện tụng về chuyện tiền bạc.

Người kiếm tiền nhờ kiện tụng, thị phi, tranh cãi với người khác, hoặc cách hơn có thể làm luật sư, thẩm phán…

Với tính chất là ám tinh, Hóa Kỵ cư cung Tài thì là người chỉ hay nhìn thấy được những lợi ích ngắn trong chuyện tiền bạc mà không có cái nhìn xa và rộng, do vậy thường chỉ được những cái lợi trước mắt mà bỏ quên những cái lợi lâu dài và to lớn phía trước.

Ở cung Tử Tức

Hóa Kỵ cư cung Tử Tức thì cha mẹ và con cái xung khắc nhau, con cái không hòa thuận nhau, giành giựt tài sản, tranh nhau thiệt hơn.

Đi cùng thêm sát bại tinh thì giảm bớt số lượng con, dễ hao hụt, con cái khó nuôi, khó dạy.

Con cái thường một mình một tính, khó chiều, về già khó được con cái phụng dưỡng, chăm sóc.

Con cái khó giữ lại được sản nghiệp mẹ cha để lại.

Con cái dễ mắc thị phi, điều tiếng, kiện tụng. Mắc các bệnh về tinh thần như thần kinh, trầm cảm…

 cung Phu Thê

Hóa Kỵ thủ cung Phối thì vợ chồng lục đục hay cãi vã, hội thêm với sao xấu khác, ý nghĩa bất lợi càng nặng hơn.

Vợ chồng hay nghi kị, nghi hoặc nhau, soi xét nhau từng tí một, không ai chịu nhường ai. Giảm nhân duyên vợ chồng.

Người hôn phối hay vướng mắc phải các chuyện thị phi, kiện tụng, pháp luật.

Hóa Kỵ, Phục Binh: Vợ chồng bất hòa, khi ở khi đi, lúc lấy nhau thì hôn nhân bị cản trở, vợ chồng hay nói xấu nhau, có thể mưu hại nhau, hoặc bị người chia rẽ.

Hóa Kỵ, Đào Hoa (Hồng Loan) thì vợ chồng dễ lừa dối nhau, ngoại tình bên ngoài.

Hóa Kỵ, Thiên Riêu thì vợ hoặc chồng là người ham chơi bời, phóng đãng, ông ăn chả, bà ăn nem.

Hóa Kỵ, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu thì âm mưu hại vợ, chồng, giết chồng, giết vợ.

Vợ chồng của mình làm ảnh hưởng tới danh tiếng của mình trong công việc.

Tóm lại, Hóa Kỵ rất bất lợi khi đóng tại cung Phu Thê, nhất là khi gặp sát tinh đi kèm.

 cung Huynh Đệ

Hóa Kỵ thủ cung Bào thì anh chị em xung khắc, tranh giành nhau về tài sản, không ở chung nhau được.

Người dễ hay có bất hòa, cãi nhau, nặng hơn là kiện tụng với anh chị em của mình. Tuổi trẻ cũng hay không hay gần gũi, giúp đỡ nhau. Âm dương nghịch lý thì tuổi nhỏ nhiều tai họa, nhiều tai tiếng.

 Hóa Kỵ đi cùng các sao khác

Những bộ sao tốt

Hóa Kỵ Đắc Địa ở Sửu, Mùi gặp Nhật, Nguyệt sáng đồng cung: Đây là một cách rất tốt của Hóa Kỵ, trong trường hợp này được ví như mây ngũ sắc bên cạnh Nhật, Nguyệt sáng sủa, có cách này sẽ hưởng phú quí lâu dài. Nếu được thêm Tuần, Triệt án ngữ thì rất rực rỡ, nhưng hay bị đau mắt hoặc đau thần kinh.

Hóa Kỵ ở Tý, Hợi có Hóa Khoa hội chiếu là người khôn ngoan cẩn thận từ lời nói đến việc làm, được nhiều người kính trọng.

Hóa Kỵ ở Tý có Khoa Lương hội chiếu, n ếu có thêm cát tinh sáng sủa hội họp thì người có đức độ, danh vọng được người quý mến, hậu thuẫn. Đây có thể là một nhà hiền triết, nhân sĩ, dân biểu, nghị sĩ hữu danh.

Hóa Kỵ đồng cung với Liêm Trinh, Tham Lang tại Tỵ, Hợi có thể khắc chế được sự bất lành, hóa giải nhiều hung họa do Liêm Trinh, Tham Lang tại Tỵ, Hợi gây nên, nhưng chỉ hợp với người mệnh Hỏa tại Tỵ hoặc mệnh Kim tại Hợi. Tuy đây không phải là cách hoàn toàn tốt, nhưng cũng khá giả, ít lo ngại về bệnh tật, tai nạn.

Những bộ sao xấu

Hóa Kỵ gặp Nhật hay Nguyệt cùng Hãm Địa: Trong trường hợp này ánh sáng Nhật, Nguyệt vốn không có lại bị thêm mây che nên rất xấu, người hay bệnh hoạn, cô đơn, cực khổ, bị tai họa lớn, phải tha phương lập nghiệp và yểu tử.

Hóa Kỵ, Cự Môn hay Hóa Kỵ, Đào Hoa (Hồng Loan) hay Hóa Kỵ, Tham Lang đồng cung thì rất dễ bị thủy tai (chết hụt, chết đuối) hay bị bắt bớ giam cầm. Riêng phái nữ gặp bộ sao này thì rất bất lợi, bị tai nạn trinh tiết như mất trinh, thất tiết, bất chính hoặc hôn nhân trắc trở, có thể không chồng hay phải lo buồn về gia đạo.

Hóa Kỵ gặp Xương Khúc, Khôi, Việt thì học hành trắc trở, thi trượt hay vất vả, dù có đỗ cũng không thành danh.

Hóa Kỵ, Thiên Riêu, Đà La ở liền cung thì họa vô đơn chí.

Hóa Kỵ, Phục Binh, Thái Tuế thì Có sự thù hằn, cạnh tranh, kiện tụng lo lắng vì sợ bị mưu hại, trả thù.

Hóa Kỵ, sát tinh đắc địa thì hoạch tài hoạch phát nhưng cũng hoạch tàn, suốt đời lưu lạc. Nếu sát tinh hãm địa thì nguy cơ càng tăng, nghèo khổ, tai họa khủng khiếp, giảm thọ.

 Hóa Kỵ đi vào các hạn

Hạn gặp sao Hóa Kỵ thì việc làm bị trắc trở, dễ bị người oán thù, mưu hại mình.

Gặp các sao Phục Binh, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Đại Hao, Địa Không, Kình Dương, Thất Sát, Địa Kiếp chiếu là vào hạn nguy hiểm, dễ ốm đau, chết người.

Hóa Kỵ, Thái Tuế, Phá Quân là hạn hay gặp chuyện thị phi, tranh cãi, tranh chấp lôi thôi, kiện tụng.

Hóa Kỵ, Thiên Hình, Địa Kiếp thì nên đề phòng nạn dao kéo, đâm chém, cưa cắt, mổ xẻ.

Hóa Kỵ, Cự Môn là hạn đề phòng sông nước và lắm chuyện lôi thôi bực mình, kiện tụng, thị phi, khẩu thiệt.

Hóa Kỵ, Hồng Loan thì tơ duyên trắc trở, rắc rối.

Hóa Kỵ, Thái Âm, Thái Dương thì dễ bị đau mắt, có tang cha mẹ.

(Theo sách  tuvi)