ẢNH CHỤP GIA ĐÌNH 21/12/2012

THẦY PHONG THỦY-TỬ VI-TRẠCH CÁT


NHẬN TƯ VẤN: phong thủy-Tử vi và xem ngày tốt xấu các việc::
+Phong thủy Dương trạch và Âm trach. Dương trạch tư vấn Nhà ở; Công trình; Văn phòng; bếp nấu; phòng thờ; phòng ngủ; phòng tắm... hợp phong thủy. Âm trạch tư vấn đặt mộ, lấy hướng trong nghĩa trang hoặc khu mộ gia đình.
+Chọn ngày Tốt các công việc: Xem tuổi xây nhà, sửa nhà; chọn ngày tốt để khởi công, động thổ; nhập trạch. Xem ngày khai trương.Xem tuổi lấy chồng, lấy vợ. Xem ngày cưới, ăn hỏi. Mua sắm ô tô và xe máy.
+Đặt tên cho con; Chọn năm để sinh con. Chọn số, biển số đẹp cho: ô tô; xe máy; điện thoại. Chọn màu sắc hợp tuổi và bản mệnh.
Xem Tử vi: Dự đoán vận mệnh cuộc đời-Dự đoán năm lấy vợ, lấy chồng. Đại tiểu vận làm ăn tốt; Dự báo tang ma, ốm đau, vận hạn và Hóa giải đề cuộc sống tốt đẹp hơn.



Thứ Tư, 15 tháng 6, 2011

Vượt Qua Vận Hạn - Bài của Lê Duy Hảo: Giám đốc Công ty Sông Lô Hà Giang (đã in thành sách và xuất bản năm 2010)

"Trái đất sắp sửa tàn phai
Loài người sẽ được lên đài hoa sen
Những người lúc sống ben chen
Nặng như đá tảng khó lên Niết Bàn"?



 1-Tùy Duyên bất biến, cực chẳng đã mới đi kiện.
Kết thúc chiến tranh cũng là kết thúc hơn mười năm trong quân ngũ của tôi, cũng là kết thúc cái thời mà người lính thường nói “súng là vợ, đạn là con, ba lô là cả giang sơn trên đời”, tôi từ biên giới phía Bắc trở về...
Gặp thời “cơ chế mở cửa”, tôi như “chăn bông ngấm nước”, nên được kinh doanh, được làm việc đến quên ăn quên ngủ để làm giàu cho bản thân và xã hội.
Liên tục hơn mười năm sau đó, tôi thường làm việc suốt từ mười hai đến mười lăm tiếng mỗi ngày. Say việc đến nỗi cả ngày không ăn cũng không thấy đói, không ngủ cũng không buồn ngủ, chỉ ước gì thời gian mỗi ngày kéo dài thêm vài ba giờ nữa. Tôi bị công việc cuốn hút như bị “ma làm”. Vợ tôi là người ít nói, nhưng cũng phải kêu lên rằng: “Anh làm để chết à?”. Thực ra, tôi chỉ muốn làm được một việc gì đó thật có ích cho mình và cho mọi người, nhưng chưa nghĩ ra. Thế là cứ lao vào hết việc này đến việc khác một cách triền miên, mê mải.
Thời đó, các lãnh đạo tỉnh Hà Giang một lòng vì dân. Họ đặt sự phát triển của Hà Giang lên trên hết. Cái “Xứ Cổng Trời” này cũng nhiều hấp dẫn, có những tiếng khèn vọng mãi trong đêm. Nhiều người tự hào vì mình quê ở Hà Giang. Trong đó có chúng tôi.
Hòa mình với thời cuộc, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sông Lô (xin được gọi tắt là Công ty Sông Lô) do tôi và một số đồng đội khác khởi nghiệp đã tích cực tham gia xây dựng nhiều công trình tại tỉnh Hà Giang. Trong đó, rất may là chúng tôi đã kịp chi hàng chục tỷ đồng để xây dựng Công viên nước Hà Phương, một mặt làm chỗ vui chơi an toàn tiện lợi, với hi vọng cứu trẻ em thoát khỏi cảnh chết đuối tập thể như đã từng xảy ra nhiều lần ở Hà Giang những năm trước đó, khi các em chỉ biết bơi lội trên sông trên suối; mặt khác, cũng là góp phần làm đẹp theo hướng hiện đại hóa cho cảnh quan vốn nghèo nàn và lạc hậu của thị xã Hà Giang, để thị xã này chuyển mình, được công nhận là thành phố trực thuộc tỉnh trong dịp 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Chúng tôi đã tự nguyện tổ chức tham gia các chương trình từ thiện với tâm nguyện      “thi ân bất cầu báo. Trong sâu thẳm lòng mình, chúng tôi còn muốn làm những điều thiêng liêng hơn nữa là xây Tượng đài Chiến sỹ để tưởng niệm và siêu độ cho những đồng đội đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Thực tế, chúng tôi đã hoàn thành một số dự án nơi đây, góp phần thay đổi cảnh quan và chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội.
Tiếc rằng, một số ít lãnh đạo tỉnh Hà Giang của nhiệm kỳ sau đã không có được cái tâm và cái tầm như thế hệ trước. Và điều nguy hại hơn là số ít đó lại có quyền lãnh đạo, nắm giữ  cương vị chủ chốt của tỉnh.
Nhiều đơn vị, doanh nghiệp, trong đó có Công ty Sông Lô, sau này đã bị họ đẩy vào tình trạng khốn khó nhất. Và đó là một câu chuyện dài, dường như đến hôm nay vẫn chưa có hồi kết.

***
Vào thời điểm những năm 1996 - 2004, Công ty Sông Lô là một trong những “Cánh chim đầu đàn” của các Doanh nghiệp Trẻ trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc. Chả thế mà Hội đồng Thi đua khen thưởng của tỉnh Hà Giang đã nhất trí cao trong việc đề nghị Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu “Đơn vị anh hùng lao động thời kỳ đổi mới” cho Công ty Sông Lô.
Nhưng đó là thời điểm trước khi ông Nguyễn Trường Tô lên làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang. Không ai biết rằng ông cán bộ này đã bị thoái hóa biến chất từ bao giờ. Chỉ thấy rằng sau khi lên nắm quyền, ông đã ký hàng loạt quyết định sai trái, không “chí công vô tư”. Đó là những văn bản như báo chí từng viết: “Dối trên, lừa dưới, bác người tiền nhiệm”. Mục đích là để ông ta và một số ít quan chức được hưởng lợi bất chính, thông qua những “sân sau”.
Sau rất nhiều lần khiếu nại, kiến nghị và thương lượng trực tiếp với “đối tác” mà không thành. Vạn bất đắc dĩ, Công ty Sông Lô mới quyết định đưa vụ việc trên ra Toà án, để nhờ pháp luật phân xử.
Báo chí ngày ấy đã coi đó là một vụ kiện “Châu chấu đá… xe”, hoặc “Châu chấu đá… voi”. Nhưng thật bất ngờ vì… “xe đổ”. Xin chép một đoạn theo Báo điện tử “Dân trí” như sau:
Vụ kiện giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sông Lô và Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang diễn ra từ ngày 14/9/2007. Theo bản án đã tuyên của Tòa án Nhân dân tỉnh, năm 2002, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang ra Quyết định            số 2309/QĐ-UB phê duyệt dự án khả thi khai thác và tuyển luyện quặng sắt của Công ty Sông Lô.
Đồng thời Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng quyết định đầu tư xây dựng đường vào mỏ Tùng Bá và giao cho Công ty này ứng vốn để đầu tư xây dựng đường.
Sau khi phê duyệt dự án, Uỷ ban nhân dân tỉnh còn cho phép Công ty Sông Lô liên doanh với đối tác Trung Quốc tại Công văn số 03 để xây dựng nhà máy tuyển luyện quặng tại Tùng Bá. Nhà máy tuyển luyện quặng với số vốn hàng chục tỷ đồng đã được xây dựng và chuẩn bị vận hành.
Mọi việc suôn sẻ cho đến cuối tháng 4/2006, chính quyền địa phương ban hành Quyết định số 1058/QĐ-UB huỷ bỏ Quyết định số 2309/QĐ-UBND nêu trên, “tước” mỏ khỏi tay Sông Lô.
Vạn bất đắc dĩ, Công ty đã phải đệ đơn ra toà cho rằng đây là văn bản trái pháp luật, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Sau nhiều lần hoà giải, Ủy ban nhân dân tỉnh đồng ý huỷ bỏ Quyết định số 1058, Sông Lô cũng rút đơn khởi kiện.
Tuy nhiên, ngay sau khi Công ty Sông Lô rút đơn, Uỷ ban nhân dân tỉnh lại ra Quyết định    số 585/QĐ-UB, lặp lại thao tác cũ vẫn huỷ Quyết định phê duyệt dự án khả thi khai thác và tuyển luyện quặng đã giao cho doanh nghiệp.
Công ty Sông Lô lần thứ 2 đệ đơn ra toà án tỉnh, đề nghị huỷ Quyết định số 585 để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Tòa án Nhân dân tỉnh Hà Giang đã xác định, căn cứ pháp lý để Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định “xử khó” doanh nghiệp là không đầy đủ, không chính xác. Nội dung Quyết định       số 585 này cũng không phù hợp với quy định của pháp luật. Đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân cũng có quan điểm, quyết định của Uỷ ban tỉnh đã vượt quá thẩm quyền.
Phiên toà “châu chấu đá… voi” kết lại bằng việc toà tuyên huỷ toàn bộ Quyết định số 585, khôi phục các quyền lợi liên quan cho Sông Lô. Uỷ ban nhân dân tỉnh đã kháng cáo nhưng ngay sau đó đã hai lần liên tiếp xin rút đơn kháng cáo. Tòa án Nhân dân tối cao đã đình chỉ xét xử phúc thẩm. Bản án sơ thẩm của Tòa án Nhân dân tỉnh Hà Giang có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, kể từ ngày bản án có hiệu lực đến nay, không có bất cứ một động thái nào cho thấy Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang sẽ thi hành phán quyết của toà án. Doanh nghiệp “bó tay” nhìn số vốn hàng trăm tỷ đồng đầu tư vào các dự án nằm chết bên khu mỏ chờ khai thác, nợ ngân hàng chồng chất tăng thêm từng ngày…
Có ý kiến cho rằng: Công ty Sông Lô khởi nghiệp, hoạt động thành công, đi lên là từ tỉnh Hà Giang, nhưng rồi lại đi “kiện” tỉnh. Như vậy có phải là doanh nghiệp này đã “vô ơn bội nghĩa” không?
Thực ra, nếu chúng tôi “kiện” tỉnh thì sẽ chẳng có cơ quan chức năng nào nhận đơn, vì tỉnh Hà Giang chẳng có tội gì. Tỉnh Hà Giang chỉ là một danh từ, mà trong đó là núi, là sông, là đất, là miền đá núi từ ngàn đời, do bao con người cùng chung tay xây dựng. Trong vụ việc này, chúng tôi chỉ kiện một Quyết định hành chính do ông Nguyễn Trường Tô ký ban hành trái luật, gây hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp và người lao động Công ty Sông Lô.
Thật mừng là công lý đã đứng về phía những người lao động Sông Lô. Vị Thẩm phán công minh, dũng cảm của Tòa Hành chính Tòa án Nhân dân tỉnh Hà Giang, ông Mai Văn Hùng, đã nhân danh Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên án: Hủy toàn bộ Quyết định    số 585/QĐ-UBND ngày 05 tháng 03 năm 2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang.
Nhưng đến bao giờ thì sự phán quyết đúng sai kể trên của Tòa án mới được người ta thi hành? Đến bao giờ người ta mới thật sự “sống và làm việc theo pháp luật”? Chẳng nhẽ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân một tỉnh như Hà Giang lại có thể đứng ngoài pháp luật hay sao? Lương tâm và đạo đức của cán bộ bây giờ lại đến thế sao? Không còn biết giữ thể diện nhân cách thì làm lãnh đạo rất khó và chắc chắn để lại nhiều hậu quả xấu, đến khi bị kỉ luật thì họ đã làm nguy hại rất nhiều cho đất nước.
Thực ra chúng tôi không cố ý áp đặt chủ ý cá nhân mà nói như vậy. Chúng tôi cũng không có ý so sánh người có ý thức tâm linh và những người bình thường ai tử tế hơn ai? Nhưng một con người mà không nói thực ý nghĩ của mình là nói dối. Nó cũng giống như một nhà văn không có niềm tin với chính mình thì không vượt lên tầm văn hóa. Muốn gì thì nói, cuối cùng con người vẫn trở về với thế giới nội tâm.
Vì vậy, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao đã có Quyết định kháng nghị số 22/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 20 tháng 9 năm 2010, với trích yếu: V/V đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao xét xử theo trình tự Giám đốc thẩm, theo đúng qui định pháp luật.
Xưa có một đệ tử hỏi Khổng Tử rằng: Ông sẽ làm gì nếu được tham dự vào việc chính trị? Khổng Tử nói: “Phải chính danh trước” đó mới là đúng. Vì “chính danh” là chính tư duy của nhiều thế hệ, ít nhất cho đến ngày nay.
Chúng tôi tin tưởng rằng thời nào đất nước cũng có những người hiền tài. Bởi nói như người xưa thì “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Hiền tài càng nhiều, được quốc gia trọng dụng, ắt vượng khí sẽ dâng tỏa và đất nước sẽ đi lên.
Khi đúng sai còn lẫn lộn, thì không thể có sức mạnh toàn năng. Các bậc hiền tài ngày xưa, các nước phát triển ngày nay đều coi trọng và tìm tòi nhân tài. Chuyện Lưu Bị ba lần “Tam cố thảo lư” mời Gia Cát Lượng là một điển hình việc trọng dụng nhân tài. 
  
2.   ANH HÙNG VÀ… TỘI PHẠM?
Nếu ai đã từng trải qua chiến tranh khốc liệt, từng chứng kiến những cái chết của đồng đội, thấy được cái tan hoang nghèo đói sau chiến tranh... rồi từ đổ nát, chúng ta đã “xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”... Ai đã từng đến, từng biết Hà Giang trong những năm trước đây; đường chưa có mà đi, điện chưa có mà sáng, người dân nghèo đói, chỉ biết ăn mèn mén với nước suối, cái đói cái rét quanh năm phủ dưới mây mù… mới càng thấy xót xa đau lòng khi xã hội mình xuất hiện một loại hình tội phạm mới: là tham nhũng, là “giặc nội xâm”…
Dường như trong đời sống phức tạp hiện nay, ranh giới giữa anh hùng và tội phạm rất mỏng manh. Có những người, vì “tình ngay lý gian”, hay một lý do riêng nào đó, bị nghi ngờ là “tội phạm”, nhưng rồi họ đã chứng minh được mình là anh hùng của nhân dân. Ngược lại, hôm nay có người còn là “anh hùng”, ngày mai đã có thể đã trở thành tội phạm...
Đấu tranh với tham nhũng là trách nhiệm không chỉ của các chiến sĩ trong lực lượng Công an, Kiểm sát, Toà án, mà còn là của toàn Đảng, toàn Dân ta. Đó là trách nhiệm trước bao thế hệ cha anh đã hi sinh xương máu, chiến đấu, bảo vệ xây dựng Tổ quốc mình được như hôm nay. Hơn nữa, nếu mỗi công dân chân chính bị tệ nạn tham nhũng xâm hại ngay với chính mình, mà không dám đấu tranh là hèn nhát, là sự vô trách nhiệm đau đớn nhất với lương tâm.
Đau, nhưng vẫn phải làm. Nỗi đau nhất là “nhân tình thế thái”. Đau vì trong đó có những người là bạn bè, đồng đội đã có lúc “chén chú chén anh”. Rồi vợ con họ có tội gì đâu. Nay phải thấy thân nhân mất chức, vào tù… đau lắm chứ. Tôi dám chắc ai không đau lòng trước cảnh ngộ ấy người đó không có trái tim. Nhưng thử hỏi nếu đất nước này cái xấu không bị lên án, không bị loại trừ thì xã hội sẽ ra sao? Khi tham nhũng đã trở “quốc nạn” thì chống tham nhũng là trách nhiệm, là đạo đức, là lương tâm của mỗi con người thể theo nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân mà làm. Nhưng phải cân nhắc cẩn trọng đúng người đúng tội, bởi cẩn thận cũng là đạo đức.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười từng nói: “Đi đôi với việc biểu dương Đảng viên gương mẫu, phải kiên quyết đưa ra những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng, xử lý kịp thời và nghiêm minh những người hư hỏng, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, bất kể người đó giữ cương vị gì. Phải coi nạn ô dù, bao che là tội ác”.

***
Vụ việc liên quan giữa Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang và Công ty Sông Lô đã qua báo chí “vô tình” lọt vào Nghị trường nước ta, trở thành đề tài bàn luận sôi nổi trong Quốc hội trong mấy kỳ họp liền. Đặc biệt là từ khi Đại biểu Lê Văn Cuông, thành viên Đoàn đại biểu Quốc hội Thanh Hoá, chất vấn Thủ tướng Chính phủ.
Đó là ngày 19-11-2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã đăng đàn trả lời chất vấn của các Đại biểu Quốc hội. Nội dung chất vấn và trả lời chất vấn phản ánh nhiều vấn đề mà cử tri cả nước quan tâm, đặc biệt là vấn đề trật tự kỷ cương hành chính và chuyện “trên bảo dưới không nghe…”. Vụ việc của Công ty Sông Lô được báo chí đưa nhiều kỳ đã được Đại biểu Lê Văn Cuông nêu ra, như một điển hình, làm “nóng” cả nghị trường.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời thẳng thắn: “Tình hình tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng đã được Hội nghị Trung ương III của Đảng đánh giá và đề ra chủ trương giải pháp. Nhà nước cũng có nhiều biện pháp đấu tranh. Trung ương cũng đã kiểm tra đánh giá tình hình. Bằng sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác phòng chống tham nhũng đã đạt kết quả bước đầu, được nhân dân đồng tình như nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tất cả các cấp các ngành, rồi hoàn thiện thể chế luật pháp theo hướng công khai, minh bạch hơn, nhân dân giám sát, kiên quyết xử lý những vụ án mà nhân dân quan tâm… Chủ tịch tỉnh năm lần không chấp hành ý kiến Thủ tướng? Tôi chưa biết là nói ai. Tôi sẽ kiểm tra…”
Đại biểu Lê Văn Cuông bổ sung: “Vị Chủ tịch năm lần Thủ tướng chỉ đạo không chấp hành là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, thưa Thủ tướng”.
Sau này, ông Lê Văn Cuông cho biết: Tôi đã đến xem “đại công trường ở Hà Giang” và cũng nghe được nhiều thông tin về các quyết định sai trái của lãnh đạo tỉnh với Công ty Sông Lô. Trên báo chí cũng đã nói rất nhiều. Uỷ ban kiểm tra Trung ương, Thanh tra Chính phủ đã vào cuộc, Tòa án cũng đã xử, Thủ tướng năm lần bảy lượt chỉ đạo mà Chủ tịch Hà Giang vẫn không chấp hành. Thế là tôi quyết định chất vấn Thủ tướng về việc tại sao trên chỉ đạo mà dưới không nghe?
Mấy ngày sau, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang đã làm văn bản chất vấn lại tôi: Một, Đại biểu Quốc hội Lê Văn Cuông lấy căn cứ ở đâu để khẳng định Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm lần không chấp hành chỉ đạo của Thủ tướng? Hai, nếu không đủ căn cứ, đề nghị Đại biểu Cuông phải chịu trách nhiệm với phát biểu của mình. Dưới văn bản ký tên trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang Hoàng Minh Nhất với đầy đủ các chức danh: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy… (Thật ra là tôi đã nhầm lẫn: Đến thời điểm đó, đã bảy lần Thủ tướng chỉ đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, chứ không phải năm lần như tôi nói còn thiếu. Và sau này, Thủ tướng còn chỉ đạo thêm ba lần nữa, nhưng vụ việc về Công ty Sông Lô vẫn chưa được tỉnh Hà Giang giải quyết dứt điểm).

***
Vậy sự thật xung quanh ý kiến Thủ tướng chỉ đạo mười lần, nhưng Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang vẫn không thực hiện là như thế nào?
Sau phán quyết của Tòa án năm 2007, Công ty Sông Lô kiến nghị được tiếp tục khai thác mỏ sắt Tùng Bá, mỏ chì kẽm Na Sơn, cũng như các dự án thực hiện dang dở như Công viên Hà Phương, hang động Tùng Bá, Khách sạn đa năng bờ đông sông Lô. Những dự án bị “treo” của Công ty Sông Lô ở Hà Giang nhiều năm nay, không phải vì thiếu đất, thiếu năng lực. Người dân sẵn sàng ủng hộ, không gây khó khăn gì, mà nguyên nhân chỉ vì thiếu tầm nhìn của một số ít cán bộ địa  phương. Nhiều kiến trúc sư nước ngoài nổi tiếng như Lars Landin, Philippe Pierga đã được Công ty mời đến Hà Giang, vật lộn với miền đất này cả năm trời, nhưng những bản thiết kế công trình đẹp của họ đã bị chìm trong sương mù. Hàng tỉ đồng chi cho thiết kế, nhiều bộ hồ sơ nằm chờ mục nát bên những lời kêu gọi đầu tư. 
Bên cạnh đó Công ty yêu cầu Uỷ ban nhân dân tỉnh thanh toán khối lượng công trình đã xây dựng hoàn thành 50 tỉ đồng và bồi thường thiệt hại cho công ty hơn 37 tỉ đồng vì ban hành quyết định hành chính trái luật.
Mặc Chính phủ chỉ đạo nhiều lần, Chủ tịch tỉnh Hà Giang thời gian đó là ông Nguyễn Trường Tô vẫn không chịu thực hiện. Đến khi Văn phòng chính phủ có công văn truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng lần thứ bảy, rồi thứ tám… thì Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang mới bắt đầu trả nợ cho Công ty Sông Lô theo kiểu “nhỏ giọt” là 17,42 tỉ đồng. Nhưng số tiền này ngay lập tức đã bị một ngân hàng ở Hà Giang giữ lại để “trừ nợ”.
Ngày 2-4-2010, Văn phòng Chính phủ lại có công văn truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng: “Yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang khẩn trương xử lí những tồn tại của dự án công viên nước Hà Phương để giải quyết dứt điểm khiếu nại của Công ty Sông Lô; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả trong tháng 4-2010”.
Đây là lần thứ chín, Thủ tướng chỉ đạo giải quyết dứt điểm vụ việc nhưng đã hơn hai tháng Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang vẫn không thực hiện. Do đó, ngày 24-6-2010, Văn phòng Chính phủ thêm một lần nữa có công văn truyền đạt ý kiến của Thủ tướng yêu cầu Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành vào cuộc để giải quyết dứt điểm các khiếu nại của Công ty Sông Lô.
Cũng về vụ việc của Công ty Sông Lô, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng cũng cho ý kiến: "Vụ Hà Giang rất phức tạp, liên quan tới quá trình hoạt động của Công ty Sông Lô với Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang. Hướng chỉ đạo là kiên quyết, yêu cầu phải kiểm tra xác định đúng, sai để xử lí. Quan điểm của tôi là xử lí thế nào cho đúng người đúng tội, đúng trách nhiệm".

***
Báo Công lý số 90 ngày 11-11-2009 có bài: ”Trở lại vụ việc Công ty Sông Lô với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang: Doanh nghiệp khổ vì hành trình đòi nợ”, phản ánh về vụ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sông Lô, đầu tư vào tỉnh Hà Giang từ nhiều năm trước nhưng không được thanh toán. Mới đây, do chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang mới chỉ đạo trả một phần nợ cho Công ty Sông Lô.
Sau khi đọc bài báo, bên lề kỳ họp thứ 6 Quốc hội XII, ông Dương Trung Quốc - Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai có cuộc trao đổi với Báo Công Lý. Chúng tôi xin được dẫn lại...
Dương Trung Quốc: Báo chí đã nói đến vụ việc của Công ty Sông Lô nhiều lần. Vụ việc này cho thấy vấn đề thực thi pháp luật ở ta hiện nay. Luôn luôn tuyên truyền là phải tuân thủ, thực thi pháp luật nghiêm chỉnh nhưng nhiều khi chính cơ quan Nhà nước lại không chấp hành nghiêm chỉnh mà lẽ ra họ phải nghiêm chỉnh nhất. Điều đó dẫn đến thiệt thòi cho người dân, và tổn hại uy tín của chính quyền.
Việc thực thi pháp luật là giữ thể diện cho chính quyền, cho bộ máy hành pháp, do đó, nếu cấp dưới không chịu làm thì cấp trên phải chỉ đạo, buộc họ phải làm. Cấp trên phải thấy trách nhiệm của mình trong việc cấp dưới không thực thi pháp luật.
Báo Công lý: Thanh tra Chính phủ, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương vào cuộc, Chính phủ đã nhiều lần ra văn bản yêu cầu tỉnh Hà Giang thanh toán nợ nần với Công ty Sông Lô nhưng vụ việc vẫn trì trệ, chứ không phải Chính phủ không chỉ đạo, thưa ông?
Dương Trung Quốc: Như thế, đây không chỉ là vấn đề uy tín của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang mà còn là uy tín của Chính phủ. Không đơn thuần là chuyện “Trên bảo dưới không nghe” mà phản ánh vấn đề cấp trên không đồng chịu trách nhiệm với cấp dưới.
Phải xem xét, tại sao vụ việc lại không được giải quyết, lỗi tại con người hay tại cơ chế? Nếu tại con người thì kỷ luật. Nếu lỗi tại cơ chế thì phải sửa chữa, khắc phục những gì mà cơ chế lỗi thời, gây ra vướng mắc. Cơ chế cũng là do con người đặt ra, khi thấy nó không phù hợp thì phải thay đổi.
Báo Công Lý: Nhà nước đang tiến hành cải cách hành chính, theo ông trong cải cách hành chính điều gì là quan trọng nhất?
Dương Trung Quốc: Người ta hay nói đến việc thiếu văn bản pháp luật để giải thích nhưng tôi thấy chỉ thực thi nghiêm chỉnh những cái đã có đã tốt lắm rồi. Vấn đề ở chỗ người ta thực thi không nghiêm chỉnh do không có chế tài xử lý đối với công chức không làm tròn trách nhiệm. Đó là một sơ hở tạo ra tình trạng vượt qua pháp luật, coi thường pháp luật.
Trách nhiệm không chỉ trong nhiệm kỳ đang làm việc mà kể cả sau khi đã nghỉ hưu. Một xã hội lành mạnh thì không có khái niệm “Hạ cánh an toàn”. Anh phải chịu trách nhiệm về những gì mình đã làm trong quá khứ. Vì không tôn trọng yếu tố lịch sử nên người ta chỉ quan tâm đến cái trước mắt, đến hiện tại… Ở nước ngoài có nhiều vụ việc 20 năm sau, 50 năm sau người ta vẫn lôi ra.
Báo Công lý: Như vậy vấn đề cơ bản vẫn là con người, thưa ông?
Dương Trung Quốc: Đúng thế, cao nhất trong cải cách hành chính theo tôi là giáo dục tư cách cho đội ngũ cán bộ công chức. Tư cách phải tỷ lệ thuận với chức vụ.
Xã hội cũ rất quan tâm đến liêm sỉ, mà “tín” là một thành tố quan trọng của liêm sỉ. Nếu một quan chức mà không coi trọng liêm sỉ thì dẫn đến nhiều hậu quả xấu.
Báo Công lý: Trở lại vụ việc của Công ty Sông Lô, nếu tỉnh Hà Giang tiếp tục không trả nợ thì Công ty Sông Lô sẽ khốn đốn. Theo ông, doanh nghiệp có thể làm gì để vụ việc được giải quyết?
Dương Trung Quốc: Tôi nghĩ rằng doanh nghiệp hoàn toàn có thể khởi kiện ra Toà án để được Toà án xét xử theo quy định của pháp luật. Trong tư duy kinh tế, bên gây tổn hại sẽ phải bồi thường thiệt hại.
Vậy là, thành quả của Công ty và bao người lao động đã dày công xây dựng trong hơn mười năm, với hàng trăm tỷ đồng đã đầu tư cho Hà Giang có nguy cơ không thể thu hồi, người lao động còn bị mất việc làm. Hệ lụy nặng nề là người dân mất niềm tin vào chính quyền sở tại. Các doanh nghiệp không còn yên tâm, chẳng dám đầu tư lâu bền vào Hà Giang. Thiệt thòi lại chính là những người dân chất phác nơi đây.
 Các dự án đang thi công dở dang bị bỏ mặc hoang phế. Mỏ Tùng Bá - Na Sơn đã khai thông, lại bị một số cán bộ có chức quyền nhưng thoái hóa biến chất tìm mọi cách tước đoạt giành cho “sân sau” của họ.
Không giải quyết được khó khăn trên, Công ty Sông Lô và Doanh nhân Lê Duy Hảo từ “Anh hùng” có thể trở thành “tội phạm”.
3-"Không đau khổ khó Thấy niết bàn?"

Rất may là, trước khi xảy ra cơ sự trên, chúng tôi cũng đã kịp và làm được một số việc nhỏ tạm gọi là “hỷ xả”. Đó là vào những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, chúng tôi đã tự nguyện hiến tặng một số xe cứu thương và giường nằm cho bệnh viện tỉnh Hà Giang, tặng nhiều xe lăn cho người già và trẻ em tàn tật ở Hà Giang và Nghệ An. Đó đều là những sản phẩm mới sản xuất được nhập khẩu từ Đức và Nhật về.
Nhiều người hỏi tại sao không xây chùa? Chúng tôi nghĩ như người xưa đã nói: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”, vậy nên chùa chưa xây vội mà nên thể hiện bằng nhiều việc làm thiết thực trước mắt.
Gian nan vậy, nhưng chúng tôi vẫn tự an ủi mình rằng, trong cái rủi sẽ có cái may. Nếu không gặp chông gai vấp ngã sẽ không hồi tâm và khó chuyển hướng. Như Phật từng có ý: “Không đau khổ khó thấy Niết Bàn…”
Dù không dám nghĩ đã ngộ Đạo, nhưng qua những năm tháng miệt mài suy ngẫm và học hỏi, chúng tôi tự thấy đã vỡ ra được nhiều điều. Đó là cả một hành trình dài từ ước mơ đến hiện thực.
Thời gian gần đây tôi cũng đã may mắn được đọc, nghe nhìn qua các thông tin đại chúng về thầy Thích Chân Quang thuyết pháp. Thậm chí còn có vài lần vinh dự được cùng ăn chay, nghe thuyết giảng của thầy. Qua tìm hiểu những thông tin từ nhiều nguồn, nhiều chiều, tuy đồng niên cùng tuổi với thầy, nhưng tôi rất khâm phục thầy, đã vì cuộc đời này mà xuất gia nguyện cầu cho chúng sinh. Đó cũng là điều khuyến khích tôi cố gắng rất nhiều trong tìm hiểu và nghiên cứu Phật pháp. Đồng thời, thầy cũng gợi mở nhiều ý tưởng để chúng tôi thực hiện cuốn sách này.
Theo chúng tôi: Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta không chỉ có chính kiến, mà điều tối cần thiết là phải sống thật. Chỉ có sống thật đời sống Phật mới thể hiện đầy đủ các đức tính Giới, Định, Tuệ trong cuộc sống. Ngoài ra, còn phải nỗ lực thể hiện qua hoạt động xã hội để cùng nhau chuyển vận bánh xe chính pháp. Khi chính pháp tồn tại thì thế giới mới chung sống hòa bình, mới chấm dứt chiến tranh, mới không còn khủng bố. Lấy việc phụng sự làm sự nghiệp, chúng ta sẽ xây dựng được một thế giới an bình và đây cũng là sự thể hiện tốt nhất đối với quốc gia dân tộc, với quê hương, với các bậc sinh thành dưỡng dục.

***
Loài người đã bao năm tốn kém thời gian và tiền bạc đi tìm hành tinh khác, đã đổ bộ xuống mặt trăng. Các nhà khoa học đã ra ngoài vũ trụ, đang chuẩn bị xây nhà máy điện trên không. Đây là nguồn năng lượng dồi dào nhất khi con người biết nương vào “tha lực”. Nó khác với sử dụng điện hạt nhân, nhiệt điện hay thuỷ điện. Ví như thủy điện phải cần có hồ chứa nước, những hồ này đã và đang gây áp lực cục bộ lên vỏ trái đất (như thủy điện Hòa Bình chừng 9 tỷ khối nước, thủy điện Sơn La 9.26 tỷ khối nước v.v..). Hậu quả mai sau chưa biết thế nào, có người coi chúng như “hai quả bom nổ chậm” rất khó lường.
Ngành y học hiện đại đã lập được bản đồ gen. Theo dự đoán chừng hơn mười năm nữa sẽ chữa được bệnh ung thư. Người ta cũng đã nối dây thần kinh để chân tay giả cũng có thể cử động được cho một số nạn nhân, dùng ánh sáng để chữa bệnh viêm xoang hiện nay rất hiệu quả… Có thể nói, khả năng của con người đang có những bước tiến ghê gớm.
Ai cũng nói, trong cơ chế thị trường, người có nhiều tiền là sung sướng nhất. Tuy nhiên, khi đã có nhiều tiền, người ta có thể mua được cả bệnh viện nhưng chưa chắc đã mua được sức khỏe cho chính bản thân mình; có thể mua được nhiều biệt thự nhưng không hẳn đã mua được một ngôi nhà hạnh phúc; có thể mua được nhiều thân xác mà không thể mua nổi một trái tim; và, có thể mua đủ loại sách vở, nhưng lại không dễ khi muốn mua được tri thức để trang bị cho mình. Rất đơn giản, bởi đường về bến giác và tuệ giác thì không thể mua được bằng tiền.
Tiền là xương máu của người khác. Các cụ xưa có nói rằng “đồng tiền liền khúc ruột”. Bòn rút ruột gan, xương máu của người khác để làm gì. Giàu có bất chính ví như kẻ bơi qua sông đeo đầy đá nặng, khó vượt thoát khi sống, siêu thoát khi chết, thậm chí nặng còn tự chìm vào địa ngục không biết bao giờ mới thoát ra được.
Hiểu luật nhân quả sẽ tránh được mê tín, tránh được thói tham lam tàn bạo. Cần biết kết hợp tri thức con người với quy luật thiên nhiên để nhân duyên thành nhân quả.
Thần hay Thánh đều là các bậc đại trí, đại dũng, nên rất công bằng, tồn tại trong tín ngưỡng của nhân loại như một sự định hướng cho con người noi theo. Không cho ai cái gì, nhưng lại mở ra qui luật và hướng cho con người noi theo. Bởi vì ý thức con người có tác động đến thiên nhiên, bởi thiên nhiên đều cấu tạo bởi những hạt proton như gió, mây, mưa v.v… Nhưng điều quan trọng là ta có tác động đến hay không? Tác động như thế nào? Hiền quá hóa đần, thấy người nghèo khó, hoạn nạn không giúp đỡ đó không phải là người hiền, thấy sai không đấu tranh người đó không phải người có trách nhiệm, thấy đúng không ủng hộ đó là sự vô minh. Kiếp này, nếu tích tụ nhiều gian dối, kiếp sau người ta có thể sẽ không nhìn không nói được. Bằng chứng là khoa học hiện nay rất hiện đại, nhưng cũng không thể chữa được bệnh câm và bệnh mù do bẩm sinh.
Yêu trẻ, trẻ đến nhà. Kính già, già để tuổi. Con người cần phải biết và làm những việc bổn phận là thuận quy luật. Phục thiện và tránh xa việc làm ác, tạo phúc đức cho mình. Nếu tích tụ đủ sức mạnh sẽ không rơi vào luân hồi sinh tử.
Hà tiện và phung phí đều dẫn đến kiệt quệ về tiền bạc, không khác gì ném tiền vào bếp lửa là không đúng chỗ. Bởi tại đó nó sẽ không nảy mầm, nó sẽ thành tro bụi khi người ta tiêu pha vô độ và không đúng cách.
Tâm đẹp, thường mặt sẽ đẹp; tâm kém, mặt cũng kém. Nhưng chỉ chăm sóc cho sắc đẹp bên ngoài, cũng sẽ mất đi nhiều năng lượng bên trong. Đến lúc nào đó, cả hai sẽ sa sút. Nên cần chú ý chăm sóc đồng đều cả nội tâm bên trong và hình thức bên ngoài.
Thiên đường là lòng nhân ái với thái độ và trách nhiệm cao vì môi trường sống chung không có kẻ thù.
Chức quyền được áp đặt có thể làm cho người khác buộc phải chấp nhận, nhưng họ vẫn không tâm phục khẩu phục. Nếu lợi dụng sự áp đặt đó vì mục đích riêng tư xấu xa, đương nhiên sẽ tự chuốc lấy thảm hại về sau. Ngược lại, những người làm việc tốt, dám xả thân vì quê hương đất nước thì sẽ được cộng đồng và xã hội ủng hộ. Lịch sử đấu tranh Cách mạng của nước ta gần 50 năm trước đã xuất hiện tấm gương hi sinh sáng chói của Hoà thượng Thích Quảng Đức…
Nhiều phật tử và những người dân yêu nước còn nhớ sự kiện trên. Gần đây, Tuần san Thanh Niên cho biết: Mùa Phật đản năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm của Chính quyền Sài Gòn cũ ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo. Để phản đối, đồng bào Huế xuống đường biến lễ rước Phật ngày 14 tháng 4 năm Quý Mão thành cuộc biểu tình. Đến đêm ấy, cả vạn người kéo về Đài Phát thanh Huế yêu cầu phát chương trình chào mừng Phật đản như mọi năm. Nhưng Phó tỉnh trưởng nội an tỉnh Thừa Thiên đã đưa xe thiết giáp và cảnh sát đến giải tán, nổ súng, ném lựu đạn vào đám đông, khiến 8 phật tử bị chết, 4 người bị thương.
Sự kiện tang tóc đó châm ngòi cuộc đấu tranh chống chế độ Diệm bùng nổ tại Huế, rồi lan rộng khắp các đô thị. Tại Sài Gòn, Hòa thượng Thích Quảng Đức tuyệt thực và gửi Tâm thư đến Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo xin tự thiêu để “cúng dường tam bảo, giác ngộ chính quyền”.
Đêm ngày 10 tháng 6, Ủy ban Liên phái chấp nhận nguyện vọng trên và Hòa thượng Thích Quảng Đức lễ tạ Phật, viết thư thức tỉnh Tổng thống Diệm trước giờ ra đi.
Sáng hôm sau, ngày 11 tháng 6, Ngài bước lên chiếc xe dẫn đầu gần 1.000 tăng ni, phật tử trong cuộc diễu hành rước di ảnh các Thánh tử đạo về chùa Xá Lợi. Đến ngã tư đường Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám – Nguyễn Đình Chiểu), xe dừng lại để Ngài bước xuống, ung dung tự tại tiến đến bên lề đường, ngồi kiết già giữa hàng nghìn tăng ni, phật tử đang nhanh chóng quây quần lần cuối hướng về Ngài.
Xăng đã tẩm ướt áo và Ngài cầm bật lửa lên tự bật. Chớp mắt, lửa bùng lên phủ kín thân, Ngài vẫn ngồi yên như một bông sen nở bừng trong lửa. Quá xúc động, nhiều tăng ni bật khóc, phật tử nước mắt chảy ròng. Hơn 10 phút sau, Ngài cúi nhẹ đầu như để vĩnh biệt mọi người, rồi nhẹ nhàng ngả ra sau, tay vẫn kiết ấn tam muội. Liền đó, đoàn phật tử võ sinh do hai võ sư Tâm Giác và Phạm Lợi điều động lập tức ùa tới bảo vệ nhục thân Ngài, đề phòng cảnh sát đem xe bọc thép đang đậu ở phía Ngã sáu Sài Gòn chạy đến cướp xác.
Một đoàn phật tử khác do Ủy ban Liên phái bố trí sẵn từ bên kia đường mang một lá cờ Phật giáo dài hơn 5 mét đến trải lên vỉa hè để cung thỉnh nhục thân Ngài về chùa Xá Lợi. Tiếng niệm Phật, tiếng khóc, tiếng kêu thương vang lên suốt quãng đường. Cảnh sát Diệm - Nhu tung ra dày đặc, vây các đường dẫn đến chùa, nhưng đồng bào khắp nơi vẫn nườm nượp đổ về kính lễ Ngài.
Chứng kiến giây phút bất tử của Ngài, có mặt phóng viên các hãng thông tấn nước ngoài như Macolm Browne của AP, Simon Michaud của AFP, Neil Sheehan của UPI (và cả tướng Mỹ Harkins nữa). Họ kinh ngạc và xúc động đưa tin để khắp thế giới biết ngay hôm ấy. Riêng Macolm Browne chụp bức ảnh độc nhất vô nhị (đoạt giải Pulitzer) cho thấy Ngài đang ngồi an nhiên trong lửa đỏ và được Trung Quốc in hàng triệu bản gửi khắp các quốc gia Á Phi: “Tôi cũng được biết lúc Henry Cabot Lodge đến gặp Tổng thống Kennedy về việc được bổ nhiệm đại sứ tại Việt Nam, Kennedy đã có một bức hình tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức trên bàn giấy” (M.Browne).
Ký giả của tờ New York Times là David Halberstam tường thuật: “Tôi thấy thân hình chìm trong lửa đỏ thật đáng kinh ngạc. Phía sau, tôi nghe tiếng khóc những người đang lần lượt kéo đến. Tôi cũng quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi một câu nào đó, quá bối rối không kịp suy nghĩ nữa... Dẫu chìm trong biển lửa nhưng hòa thượng vẫn ngồi bất động, không nhúc nhích, không một tiếng rên la, toát lên vẻ trầm tĩnh khác hẳn với những người đang đứng xung quanh òa khóc”.
Sau hơn một tuần quản tại chùa Xá Lợi, Ủy ban Liên phái tổ chức lễ rước nhục thân Ngài về An dưỡng địa làm lễ Trà tỳ vào ngày 20 tháng 6: “Trong lò thiêu nóng đến 4.000 độ, xương thịt cháy tiêu hết, duy chỉ có trái tim của Ngài vẫn còn nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy” như tài liệu lưu trữ của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ghi nhận.
Sau này, Hòa thượng Thích Trí Quảng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã phát biểu tại lễ khánh thành Công viên tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức – Thành phố Hồ Chí Minh, sáng ngày 18 tháng 9 năm 2010: “Tin tức và hình ảnh Bồ tát Quảng Đức ngồi an nhiên trong ngọn lửa tự thiêu đã được lan truyền khắp thế giới... Nhiều tổ chức Phật giáo biểu tình phản đối và kêu gọi chính phủ Diệm chấm dứt cuộc đàn áp Phật giáo. Đặc biệt là tiếng nói của ông U Thank, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lúc bấy giờ (1963), cũng đã phản đối việc bắt bớ và tàn sát dã man của chính phủ Diệm đối với tăng ni và phật tử.
Và ngay cả Ngoại trưởng của chế độ Diệm là giáo sư Vũ Văn Mẫu đã cạo tóc để hành hương sang Ấn Độ nhằm chiêm bái và kêu gọi nhân dân thế giới phản đối chế độ độc tài Nhu - Diệm.
Chẳng những tín đồ Phật giáo, mà các tôn giáo khác và các dân tộc yêu chuộng hòa bình đã đồng loạt ủng hộ phong trào tranh đấu của Phật giáo Việt Nam”.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương viết “Lửa từ bi” có những câu: Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc,/ Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!/ Chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác/ Trong vô hình sáng chói nét từ bi/ Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?/ Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre gần mục nát/ Với thời gian lê vết máu qua đi/ Còn mãi chứ! Còn trái tim Bồ tát/ Gội hào quang xuống tận ngục A Tỳ... (Cũng bởi vậy mà ông đã bị mật vụ Diệm Nhu đến nhà bắt).
Tại Chiến khu, ngay hôm sau 12 tháng 6 năm 1963, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam long trọng tổ chức lễ truy điệu cho Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Từ Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng công bố trên đài phát thanh và báo chí hai câu đối kính viếng Hòa thượng Thích Quảng Đức:
Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng uy thiên nhật nguyệt;
Lưu danh bất tử bách niên chính khí địa sơn hà;
 (Vì pháp thiêu thân, muôn thuở hùng uy trời nhật nguyệt - Lưu danh bất tử, trăm năm chính khí đất sơn hà - Phan Duy Nhân dịch).
Ngày 13 tháng 6, báo Nhân Dân đăng xã luận tôn vinh gương hy sinh của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Khắp các thành phố, thị xã và vùng nông thôn miền Bắc, từ Lạng Sơn đến Vĩnh Linh, đều tổ chức mít tinh ghi nhớ công đức Ngài và lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khẩn đến Ủy ban quốc tế ở Việt Nam yêu cầu xem xét tính chất phi pháp của chế độ Diệm đối với Phật giáo. Cùng lúc, nhiều tờ nổi tiếng trong làng báo thế giới như Washington Post (Mỹ), Le Monde (Pháp), La Gezette de Lausanne hoặc Journal de Genève (Thụy Sĩ), cũng như dư luận và các tổ chức tôn giáo tại các quốc gia có người theo đạo Phật như Ấn Độ, Nhật Bản, Miến Điện (Myanmar), Tích Lan (Sri Lanka), Thái Lan, Nam Hàn (Hàn Quốc), Campuchia, Lào... đều lên tiếng chỉ trích Diệm - Nhu.
Từ Vatican, Đức Giáo hoàng Phao Lồ đệ lục gửi thông điệp đến Việt Nam biểu lộ “sự chú tâm, đau đớn khi theo dõi các biến cố bi thảm đang giày vò người dân Việt, cầu nguyện để tất cả mọi người tái lập tình tương thân huynh đệ và tôn trọng các quyền tự do chân chính”. Nhưng thông điệp trên bị chính quyền Diệm ngăn cấm, không cho phổ biến và phong trào đấu tranh càng bùng lớn hơn với sáu cuộc tự thiêu nối theo:
1. Đại đức Thích Nguyên Hương (Bình Thuận),
2. Đại đức Thích Thanh Tuệ (Quảng Trị),
3. Ni cô Thích Nữ Diệu Quang (Ninh Hòa),
4.Thượng tọa Thích Thiện Huệ (Thừa Thiên – Huế),
5. Đại đức Thích Quảng Hương (Sài Gòn),
6. Đại đức Thích Thiện Mỹ (Sài Gòn).
Nữ sinh Mai Tuyết An chặt đứt tay mình tại chùa Xá Lợi để chống chế độ Diệm và nữ sinh Quách Thị Trang 15 tuổi bị cảnh sát Diệm bắn chết trước chợ Bến Thành. Làn sóng đấu tranh bất khuất dâng cao cho đến ngày chế độ Diệm bị lật đổ hoàn toàn bởi Hội đồng quân nhân do tướng Dương Văn Minh đứng đầu… 
Từ năm 2004, Thành ủy và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức ở nơi Ngài tự thiêu năm 1963. Đầu năm 2005 Thành phố đã chọn xong mặt bằng rộng 1.848 m2 góc đường Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Đình Chiểu để thực hiện.
Năm 2007 kết thúc cuộc thi sáng tác mẫu tượng đài và phù điêu với giải chính thức trao cho hai tác giả: Võ Công Chiến - Võ Công Thắng. Công trình khởi công từ ngày 6 tháng 11 năm 2007, hoàn thành ngày 17 tháng 9 năm 2010, tổng đầu tư hơn 23 tỉ đồng. Tượng Bồ tát và phù điêu đúc bằng hợp kim đồng. Tượng cao 6 mét, đường kính 4 mét, đúc theo mẫu của các tác giả đoạt giải nêu trên. Phù điêu cao 3 mét, dài 12 mét, mô tả khái quát lịch sử đấu tranh cách mạng của phật tử và các tầng lớp nhân dân.
Như vậy, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu cách đây gần nửa thế kỷ, nhưng ngọn lửa từ bi và trái tim bất tử của Ngài vẫn còn tỏa sáng mãi trong lòng đạo pháp và dân tộc.
Thế kỷ 21 con người với nền khoa học hiện đại đã tiến rất xa, nhưng vẫn còn những công trình bị sự cố vết nứt như: Chùa Tây Phương, cầu Văn Quán, tượng đài Điện Biên. Đổ vỡ là tự nó thay đổi. Người hiểu qui luật sẽ thay đổi lòng ham muốn, còn tâm vô minh thay đổi đối tượng, rút ruột công trình nhưng không thay đổi lòng ham muốn. Võ Tắc Thiên từng nói với Công chúa Thái Bình rằng: Vì ta thương con nên không muốn con làm Hoàng đế, làm Hoàng đế khổ lắm… con hãy lấy chồng, sinh con như bao người bình thường khác đó mới là cực lạc.
Người Pháp có câu: Cái không mua được bằng ít tiền sẽ mua được bằng nhiều tiền hơn. Nguyên Bộ trưởng Đào Đình Bình cũng từng nói đại ý: Trong cơ chế này thì ai làm bộ trưởng cũng sẽ như tôi. Lúc thanh tâm thiền, người ta có thể sẽ phát hiện ra chân lí như Jăng-pôn-sác trong cuốn sách “Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cơ cấu”.
Tâm thiền vừa là triết học vừa là khoa học. Nếu kết hợp giữa thể xác và tinh thần, khách thể và chủ thể thì tâm thức con người sẽ diễn biến rất nhanh, nhanh hơn tốc độ ánh sáng: 300.000 km/s.
Muốn xác lập chủ kiến cần phải phá chấp, hủy bỏ những tà kiến vô minh. Hiểu nhầm đạo Phật là từ bỏ ý chí phấn đấu. Đạo Phật là nền tảng, duyên khởi, mọi việc điều có nhân quả, báo ứng. Mỗi việc làm tốt đều tạo nhân lành, hợp đủ nhân duyên sẽ thành quả phúc và thiền là nền tảng cho hạt giống lành sinh sôi, là nội tâm của mỗi con người, giữ bản sắc cái riêng của mình trong cái chung của dân tộc, quốc gia, toàn cầu để đi đến tận cùng của cái ta là người, tận cùng của người là ta.
Hiện hữu là chân lí toàn thể, lí trí chỉ là chân lí bộ phận. Vì vậy, không bao giờ chúng ta chống lại được cái chân lí toàn thể, mà chỉ có thể biến đổi theo chân lí toàn thể, tức là ta không thể biến thành nó mà là cùng nó để tồn tại.
Tôi đã nghe hướng dẫn viên du lịch nói: Chính phủ Ma-lai-xi-a đòi mua một khu đất rộng trước cửa nhà Chính phủ, Quốc hội, Bộ Quốc phòng làm sân duyệt binh nhưng tư nhân không bán, vì họ cho rằng để cho Chính phủ thuê duyệt binh, mít tinh sẽ có thể lãi hơn.
 Theo thuyết phân tâm học của phương Tây Freud khi tâm trí ta phản ánh không trung thực là đã mắc bệnh thần kinh. Còn theo thiền học phương Đông thì tâm ta như mặt hồ, nếu không bị loạn động sẽ soi rõ cả bầu trời và tâm ta như một tấm gương.
Hiện nay bệnh Alzheimer là bệnh thoái hóa cả não bộ không hồi phục. Thế giới có khoảng 12 triệu người đang mắc bệnh, dự báo khoảng 20 năm tới sẽ có khoảng 65 triệu người sẽ mắc bệnh Alzheimer. Nhận cảm sai, cảm giác sai… cuối cùng là mất trí nhớ đến tâm thần. Bệnh tâm thần rất khó chữa vì khoa học chỉ mới chữa bệnh, chưa trú trọng chữa người bệnh. Chúng ta mới chỉ nhìn thấy phần nổi, cái vỏ bên ngoài như: chức quyền, tiền bạc, chưa thấy được khả năng tiềm ẩn của chính mình.

 “Biển thiêng là bởi có rồng
Người cao bởi đạo chứ không bởi người”
Loài người đã đi qua năm thang bậc từ: Văn chương - Văn học - Văn hóa - Văn hiến - Văn minh. Đạo phồn thực là trở về với Chân như, Chân tâm của chính mình, đang ra sức bảo tồn thiên nhiên. Bảo vệ cái đã có. Hơn bốn triệu năm trái đất mới tạo ra được tầng Ôzôn, nhưng chỉ trong thời gian ngắn loài người với nền công nghiệp hiện đại đã làm thủng tầng Ôzôn, nó đã rộng hoác ở Nam Cực và Bắc Cực. Mạnh mẽ như loài khủng long, đã từng bá chủ trái đất hơn sáu triệu năm, mà nay đã tiệt chủng.
Mối tương quan giữa tài năng và đạo đức là giúp con người tỉnh giác. Đạo đức sinh lí tưởng sống là ước mơ cống hiến nhiều nhất cho cuộc đời. Như vậy tài năng cộng với đạo đức thành lí tưởng. Đạo đức là nhân, tài năng là quả.
Như thuyết nhân quả đã nói: một nhân sinh ra nhiều quả. Xã hội nếu được đầu tư giáo dục là quan trọng nhất. Một đồng đầu tư cho giáo dục sẽ lãi gấp hơn mười lần. Nếu tập trung cao và đầu tư đúng cho giáo dục chỉ khoảng 3 đến 5 năm nữa đất nước ta sẽ khác xa, sẽ đổi mới hoàn toàn. Cần có mô hình mới, vì văn hóa chung của xã hội là vô số và hỗn độn cần thanh lọc.
          Người ta cần biết làm chủ tâm hồn mình. Thành công là đến sát với vô ơn, bạc bẽo. Con người ta khi thành công còn rất xa với quả Phật. Thành công để làm nốt phần trách nhiệm cao hơn, thời gian thách thức lòng kiên nhẫn để đến được đích là quả Phật, nhưng mấy ai quên hưởng thụ vì cho rằng: thành công là hơn người… bản ngã tăng theo, quên hết cử chi đã bầu mình, cấp trên đã dìu dắt, đàn em đã bao ngày phụng sự chăm lo.
          Nếu thành công mà quên đi phúc được hưởng, hạn chế và tránh xa tiệc tùng linh đình, du lịch, hội hè, vui thú. Thay vào đó là trách nhiệm cao hơn, làm được nhiều việc tốt cho quê hương đất nước người đó sẽ đạt quả vị, được mọi người kính nể, ra đi được mọi người thương tiếc. Như Bác Hồ… như những nhà lãnh đạo tài ba là: Đạo, là tình yêu bao la, hiểu rõ trách nhiệm là cách trả báo tốt nhất với cuộc đời khi ta còn sống, còn hít thở, không phí hoài không khí của đất trời.
          Nói dối có tội với trời
          Làm giả có tội với đất
          Không làm được có tội với tiền nhân
          Nếu làm sai sẽ có lỗi với hậu thế.
Tâm thiền làm cho con người an lạc, vỏ não bình yên mà bên trong bộ não tỉnh thức hoạt động như nhà tâm linh. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng người có huyết áp tâm thu cao, hoặc tăng cholesterol trong máu sẽ có nguy cơ rất cao bệnh Alzheimer. Hướng đến tâm linh và thiền định sẽ giúp chúng ta tránh được bệnh Alzheimer. Sống an lạc đến ngày cuối cuộc đời là ngày đầu bay vào vũ trụ.
Theo số liệu điều tra của một số nhà nghiên cứu trên thế giới cho thấy: người mắc bệnh Alzhemer ở Mỹ 4 triệu, còn các nước trên thế giới 8 triệu. Người da trắng ít bị bệnh hơn người Mỹ gốc Phi. Còn người châu Á thì ít mắc bệnh hơn nơi khác. Người ta cho rằng do môi trường tạo nên, vì Bắc bán cầu trú trọng đến tâm linh hơn.
Nhìn theo góc độ khoa học: Nếu lấy tinh trùng của người đàn ông được giải Nobel cấy cho phụ nữ, thì cũng không thể chắc chắn là sinh ra thiên tài. Mà thiên tài là do đạo đức phát sinh tài năng. An lạc Niết bàn khác với lạc thú thế gian là vậy.
Tứ Thánh đế đã giải thích rất rõ vì sao đời người đau khổ. Đạo Phật là cứu khổ cứu nạn! Nhưng đã có thời người ta hiểu nhầm đạo Phật: Đời là bể khổ. Sư Tổ Huệ Năng đã nói rằng “Khi mê thì con nhờ Thầy độ, khi giác ngộ rồi con tự độ”.
Dân gian có câu hài hước: Con ơi nhớ kĩ câu này, đến khi con ngộ lời thầy quên luôn. Phải tìm ra nguồn gốc khổ từ đâu và cách làm thế nào để hạn chế nó. Còn bé thầy lái đò chở trò sang sông, khi lớn và khỏe mạnh trò lái… diệu dụng là kết hợp Tha lực với Tự lực. Phật nói: Đời có khổ ta có Tứ diệu đế và Bát chánh đạo diệt khổ, đó là: Khổ - Tập - Diệt - Đạo.
Bát chánh đạo là:
1-   Chánh kiến (skrt: samyag-dṛṣṭi, pāli:sammàditthi), thấy đúng.
2-   Chánh tư duy (skrt: Samyak-saṁkalpa, pāli: sammàsankappa): suy nghĩ đúng.
3-   Chánh ngữ (skrt: Samyag-vāc, pāli: sammàvàca): nói đúng.
4-   Chánh nghiệp (skrt: Samyak-karmānta, pāli: samm kammata): làm việc đúng.
5-   Chánh mạng (skrt: Smnyag-ājīva, pāli: sammààjiva): sống đúng.
6-   Chánh tinh tấn (skrt: Samyag-vyāyāma, pāli: sammààyàma): siêng năng đúng.
7-   Chánh niệm (skrt: Samyak-smṛti, pāli: sammà satti): nhớ đúng.
8-   Chánh định (Samyak-samadhi, pāli: sammà samàdhi): tập trung đúng.
Cuộc sống của con người ngày càng mất cân bằng. Nhiều căn bệnh hiểm nghèo khó chữa đã và đang phát sinh là một trong những hậu quả tất yếu khi chúng ta tiếp tục hủy hoại môi trường. Dùng chất đốt bằng khí ga... đem lại cho ta sự tiện lợi dễ chịu. Nhưng chính khí chất đó lại xuyên thủng tầng ôzôn cách mặt đất chừng 21.000 mét. Các tia vũ trụ, tia mặt trời, các tia tử ngoại, các giải hạt siêu tốc độ có cơ hội sẽ lập tức tìm đến “gặp gỡ” chúng ta trong điều kiện không mong muốn. Để chặn chúng lại ta phải dùng xạ trị khu tụ, tức là chấp nhận ác xạ.
Công nghiệp càng phát triển đi lên, môi trường càng bị đẩy xuống. Hiện tượng Công ty VEDAN hủy hoại cả con sông Thị Vải với đời sống của hàng chục vạn người dân sống hai bên bờ, rồi Nhà máy Super Lâm Thao đã đẩy xã Thạch Sơn thành làng ung thư không thể cứu vãn… mới chỉ là bề nổi nhỏ bé của cả một tảng băng chìm không thể cân đo được khối lượng và thời gian tồn tại.
Thiên nhiên có vô số những điều huyền diệu. Hãy thử hình dung một hôm ta được đến với rừng. Muôn loài chim chóc đang chuyền cành và nghiêng đầu hòa tấu cùng gió thổi mây bay. Lúc chim ngừng hót vụt xa, trong tĩnh lặng ta sẽ thưởng thức tiếp hương thơm ngào ngạt của cỏ hoa, tiếng rả rích thôi miên của côn trùng, tiếng róc rách thanh tao của suối nguồn tươi trẻ. Con người cùng thiên nhiên buông thả. Tại đó và chính lúc đó, ta đã may mắn tiếp nhận được sóng Prana, nguồn năng lượng hết sức dồi dào và tự nhiên mà trời đất ban cho.
Đó là một loại khí di tế rất mỏng và mịn, chính nó đã nâng đỡ cái thân tứ đại của chúng ta, mà ngày nay gọi tâm hồn. Một tâm hồn yếu đuối không thể trình bày ra cơ thể một thân hình khỏe mạnh và ngược lại, cũng không thể có một thân hình vạm vỡ khỏe mạnh mà tinh thần yếu đuối. Nhưng trong bĩ cực giữa môi sinh, nó đã trở thành nguồn năng lượng quý giá đến siêu nhiên đối với con người. Lạ thay, từ hằng sa kiếp trước, nguồn năng lượng này đã được Trời Phật thức mở.
Sự tương giao giữa con người với thiên nhiên là vô cùng mật thiết. Sau những ngày bận rộn mưu sinh làm việc quá sức, lại phải sống giữa thiên nhiên bị phá hoại tàn khốc, chắc chắn sự sống trên trái đất này sẽ lâm nguy. Những Cựu chiến binh Công ty Sông Lô đầu tư xây dựng công viên Hà Phương, là góp phần xây dựng sự quân bình, để mọi người được vui chơi, thưởng ngoạn sau những ngày làm việc mệt mỏi, căng thẳng của cuộc sống hiện đại. Góp phần giảm thiểu bệnh Alzheimer.
Hành động cao quí nhất của con người là làm từ thiện với tất thảy chúng sinh, chứ không phải làm giàu để vinh thân và phô trương với người khác. Hành động và cốt cách khẳng định đẳng cấp của mỗi con người. 

4.Nhân quả công bằng và phía sau ...cái chết. 

Đó là cái gốc của đạo đức, cũng là giáo lí cơ bản nhất của nhà Phật. Theo kinh sách nhà Phật: Chính đạo đức sẽ sinh ra năng lực, xét theo luật nhân quả “nhân nào quả nấy”, nhưng một nhân có thể tạo ra rất nhiều quả. Ví như ta gieo một hạt thóc sẽ ra hàng chùm hạt và tiếp nối đến vô cùng. Tội ác cũng vậy, nếu ta hãm hại một người sẽ gây đau khổ cho nhiều thân bằng quyến thuộc của họ và hậu quả là khôn lường, ta rất khó rửa sạch trong một vài kiếp người. Làm ác tự nó nặng lên và có thể rơi vào nghịch cảnh vì tâm loạn, bất an...
Mỗi con người thông minh cần phải biết mình là ai và đang ở đâu. Trong hành trình muôn dặm của cuộc đời nên biết điểm dừng của chính mình.
Hãy dành một chút thời gian tĩnh lặng để thiền định, để cảm nhận sự thay đổi trong vô vi của chính mình. Điều đó sẽ giúp người ta tạo ra năng lượng, tạo ra nền tảng, tạo ra hạt giống… Nói cách khác, thiền định chính là sự góp phần tạo nhân cho tương lai của chính mình trên con đường nhân nào quả nấy.
Luật nhân quả không phải là sáng tạo của Đức Phật, mà là nguyên lí tự nhiên của vũ trụ. Uy Đức của Đức Phật chùm cả đất trời nên khám phá ra nó và có cái nhìn xuyên suốt… đã thấy rõ nhất trong các bậc Thánh.
Tất cả hệ thống giáo lý sâu sắc nhất của nhà Phật đều đặt trên nền tảng của luật nhân quả, nếu ta không nắm vững được luật nhân quả nghiệp báo sẽ hiểu sai đạo Phật, không ứng dụng được vào cuộc sống, dễ đi vào sai lầm và rơi vào mê tín, không nâng cao được uy đức và cuộc sống tốt đẹp của chính mình. Cho nên cần phải hiểu rõ nguyên lí tuyệt đối của vũ trụ là nhân quả.
Ngày nay, khoa học đã tiến rất xa trong việc khám phá và chinh phục vũ trụ. Số lượng 150 tỷ ngôi sao quay quanh “hố đen” cho thấy vũ trụ rất đa dạng, bí ẩn, hùng vĩ. Nhưng vũ trụ cũng có qui luật thống nhất từ các thành viên cho tới cả tập đoàn sao và các loại vật chất trong vũ trụ tuy khác nhau nhưng cùng một qui trình chuyển hóa nhất quán về vật chất.
Giả thuyết trên của các nhà khoa học cũng nhằm chứng minh một chu trình khép kín và vĩnh cửu của thế giới vật chất: sinh ra - phát triển - già cỗi - diệt vong; rồi lại tiếp diễn lại từ đầu. Trong giả thuyết vấn đề nhiệt năng được đưa lên hàng đầu. Bằng cách nào vũ trụ có được một kho nhiệt năng lớn như vậy?
Nhiệt năng quyết định sự tán nhỏ, kết tụ rồi lại phân giã, để rồi lại tạo thành các vì sao, mặt trời và các hành tinh... trái đất chúng ta đang sống là một điển hình.
Nhiệt năng quyết định tạo nên khối lượng, từ trường, tốc độ, quĩ đạo, giãn nở hay hủy diệt của các thành viên trong Vũ trụ.
Nhiệt năng cũng tạo ra các yếu tố khác nhau ở những điều kiện nhiệt độ, áp suất khác nhau cho ta những vật chất có cấu trúc khác nhau. Vật chất chuyển từ thể khí nóng sang thể lỏng, rồi đến thể rắn là một quá trình. Đó tạm gọi là tiến độ lùi của nhiệt.
Giữa sao và hành tinh không có hố ngăn cách trong bước tạo thành, chỉ là quá trình biến đổi của vật chất mà thôi. Chỉ là sự khác nhau như từ hoa đến quả của cùng một cây. Vật liệu kiến tạo chỉ ở cùng một nguồn, cũng như gốc đại thiên hà với các hành tinh vậy.
Giải thích thêm các hiện tượng bí ẩn trong thế giới tự nhiên, kể cả thời kỳ bí ẩn nhất của thế giới địa chất: Kỷ Pécmi - Triát trên hành tinh chúng ta. Giai đoạn tiền vũ trụ lúc chưa hình thành đại thiên hà bao gồm một bầu khí chất hỗn nguyên. Vật chất cơ bản của tiền vũ trụ là khí Hyđrô nhưng chúng ở trạng thái Ion dương và trạng thái Ion âm. Nguyên tử Hyđrô có hai hạt gốc của Vũ Trụ, đó là Prôton và Electron có điện tích bằng nhau đó là qui luật của tự nhiên. Hai đối lực này cân bằng nhau về điện tích, nhưng lại chênh lệch nhau về khối lượng. Hạt prôton không thể ở trong trạng thái tự do của tiền vũ trụ, chúng sẽ tự tóm bắt hạt electron vì chúng luôn luôn hấp dẫn nhau và có lý tính hoàn toàn đối ngược, để tạo nên nguyên tử Hyđrô. Đó là tiền vật chất của vũ trụ hay còn gọi là vật chất tiền sao. Nhưng nếu Hyđrô trung hòa thì không thể nén chúng lại để tạo ra đại thiên hà được.
Giả thuyết về nguồn gốc mặt trời cho thấy: mặt trời chuyển động quanh nhân thiên hà với vận tốc 250km/s và gần 200 triệu năm đi được một vòng. Mặt trời của chúng ta được nổ từ thiên hà nguyên sơ “thiên hà gốc lúc chưa có các vì sao” trong những vụ nổ lớn của vũ trụ.
Như vậy nguồn gốc khối lượng, năng lượng của mặt trời được sinh ra từ thiên hà nguyên sơ. Nhiệt lượng và khối lượng của thiên thể này lúc mới ra đời rất cao và rất lớn, do bức xạ nhiệt vào vũ trụ, mặt trời ngày nay co lại rất nhiều về khối lượng và giảm đi về nhiệt lượng, nên được gọi là "chú lùn vàng" theo giả thiết mặt trời vẫn đang tiếp tục chết nhiệt nhưng khối lượng của nó quá lớn, nên sự nguội của mặt trời vô cùng chậm chạp, tới mức con người không thể đo được sự thay đổi nhiệt lượng của nó. Bằng nguyên lí vũ trụ thì tất cả các vật thể trong thiên hà và đại vũ trụ đều đi đến chỗ mất năng lượng và chết nhiệt. Đó chính là nguyên lí có sinh có diệt.
Mặt trời đang xảy ra phản ứng tổng hợp nhiệt hạch vì nhân của nó có nhiệt độ rất cao khoảng gần "20 triệu độ". Giả thuyết này đề xuất một phản ứng thứ 2 theo chu kỳ 11 năm xảy ra một lần trong nhân mặt trời là phản ứng phân hạch hạt nhân, cứ 4 năm lại ngừng hoạt động.
Nguồn gốc của hành tinh: sau 3 vụ nổ mặt trời sinh được chín hành tinh lớn trong đó có bảy hành tinh thuộc dương và hai hành tinh thuộc âm. Khối lượng và nhiệt lượng của các hành tinh đều lấy từ mặt trời.
Sau một thời gian dài mặt trời bức xạ nhiệt, vỏ khí mặt trời co lại làm mất cân bằng áp xuất giữa vỏ và nhân gây ra vụ nổ lớn. Ngày nay, theo chu kỳ 11 năm, các vụ nổ vẫn diễn ra trên bề mặt của mặt trời tạo thành các hố đen. Người Trung Hoa gọi là "kim ô”
Có 3 nhóm hành tinh sau ba vụ nổ:
Nhóm 1 cách xa mặt trời nhất gồm: lớn nhất là sao Mộc, rồi đến sao Thổ, sao Thiên Vương, sao Hải Vương, sao Diêm Vương nhỏ nhất.
Nhóm 2 bao gồm: trái đất lớn nhất kể cả vệ tinh mặt trăng rồi đến sao Kim, sao Hỏa, nhỏ nhất là hệ tiểu hành tinh.
Nhóm 3 đơn độc chỉ có một sao là sao Thủy gần mặt trời nhất.
Qua sự phân bố như vậy ta rút ra được lịch trình các vụ nổ: mặt trời có ba vụ nổ lớn sinh được chín hành tinh.
Trong cùng một vụ nổ các hành tinh có khối lượng lớn sẽ ở gần mặt trời, khối lượng nhỏ văng xa hơn vì nó phụ thuộc vào lực đẩy và lực hấp dẫn cân bằng nhau, chúng xác định bán kính quĩ đạo. Khoảng cách bán kính xích đạo của sao Mộc 71.492km, thời gian quay quanh mặt trời 4.332 ngày, khối lượng so với trái đất bằng 318 lần, khối lượng riêng 1,3, gia tốc trọng trường 25m/s, chu kỳ quay 9 giờ 55 phút, có 16 vệ tinh, theo tính toán của giả thuyết này nhiệt độ nhân khoảng 1.567.127oC. Từ trường rất mạnh.
Vụ nổ thứ 3 chỉ sinh ra một sao Thủy. Dù nhỏ nhất, nhưng sao thủy vẫn ở gần mặt trời nhất. Nó là “đứa con út bé bỏng đáng yêu” của hệ mặt trời. Sau 3 vụ nổ, đã cung cấp 98% momen động lượng cho các hành tinh, nên mặt trời chỉ còn lại 2%. Khi đã cân bằng momen động lượng, mặt trời không sinh ra hành tinh nào nữa.
Sau khoảng 7 tỷ năm, khi đã nguội hẳn, mặt trăng tạo được những áp khí lạnh, làm ngưng tụ hơi nước trong khí quyển rơi xuống địa cầu tạo ra nhiều vụ mưa lớn, nó giống hiện tượng như ta đun nấu tạo ra nước cất, rượu...
Qua nhiều năm kéo dài, nhiều trận mưa lớn, trái đất đã bị bao bọc một khối cầu nước khổng lồ, trong tình trạng nóng bỏng sôi sục. Khí quyển lúc bấy giờ liên tục sinh ra giông bão, sấm sét. Trong điều kiện quả cầu nước đó, những cột núi lửa phun cả nước và macma từ đại dương lên không gian bị sét đánh vào tạo ra được chất axit amin và chất Abumin, đó là những thành tố hữu cơ đầu tiên của sự sống và ngày một nhiều trong đại dương mênh mông toàn cầu.
Sau vài trăm triệu năm, nhiệt trong trái đất hạ xuống. Trên vỏ trái đất dầy thêm nước khoáng. Với nhiệt độ ấm áp ở 40oC và môi trường nước chưa mặn như hiện nay, kết hợp với các chất đã có, trong đại dương xuất hiện các thực thể như rong, rêu, tảo, vi sinh vật... Đó là các mầm mống thực vật, khởi đầu cho sự xuất hiện các giọt sống nguyên thủy khác. Do nhiệt độ mặt trời còn rất lớn dưới tác động của tia tử ngọai, các hóa chất trong môi trường đó tạo nên những tế bào sống, từ đơn bào đến đa bào và các sinh vật bắt đầu xuất hiện. Các vi thực vật cũng bắt đầu xuất hiện trong đại dương.
Điều bí ẩn lực hấp dẫn của mặt trời với các hành tinh, nếu tính theo định luật Niutơn thì trái đất văng đi rất xa do lực văng ly tâm lớn hơn lực văng hướng tâm. Vậy điều bí ẩn nằm ở đâu? Theo giả thuyết này, lực hấp dẫn của khối lượng này với khối lượng kia còn phụ thuộc vào một đại lượng vật lý thứ ba đó là nhiệt lượng.
Như vậy lực hấp dẫn giữa hai vật thể phụ thuộc vào ba đại lượng vật lý: Khối lượng - nhiệt lượng - khoảng cách. Áp dụng công thức trên vào hệ mặt trời  thì lực hấp dẫn sẽ vô cùng lớn. Vì vậy mặt trời mới là tâm quay và giữ được sự chuyển động của các hành tinh không thoát khỏi nó.
Cũng theo nguyên lý chung của vũ trụ, các hành tinh lúc mới ra đời là siêu nhiệt, nên cũng bức xạ nhiệt và co về thể tích, làm cho các động năng của các hạt nhân trong nhân chuyển động mạnh, gây vỡ hạt nhân, nên nổ sinh ra các vệ tinh.
Vì sao Mộc có khối lượng lớn và nhiệt độ cao nên nổ sinh ra được 16 vệ tinh, sao Thổ nhỏ hơn sinh ra được 12 vệ tinh, sao Thiên Vương được 5 vệ tinh, sao Hải Vương được 2 vệ tinh, trái đất 1 vệ tinh, sao Hỏa được 2 vệ tinh, sao Kim thuộc âm nên sức nổ kém không tạo được vệ tinh nào. Sao Thủy khối lượng bé sức nổ kém nên không tạo được vệ tinh nào.
Nay các vệ tinh của các sao nhỏ đã nguội trước. Ví như mặt trăng của chúng ta đã nguội hẳn, trên bề mặt để lại nhiều dấu tích núi lửa chứng tỏ đó là một phần vật chất của trái đất. Khối lượng mặt trăng nhỏ, tỷ trọng nhẹ, áp suất kém, không tạo ra vật chất ở trạng thái nặng như sắt ở trái đất. Ngày nay mặt trăng không còn nội lực để tự quay quanh trục của mình, phần nặng nhất của mặt trăng rơi vào trọng lực của trái đất, do lực hấp dẫn của trái đất và tự quay quanh trục tạo ra sự chuyển động của mặt trăng theo chu kỳ 1 vòng/tháng, vì thế ta chỉ nhìn thấy một mặt của nó, mặt sau không bao giờ nhìn thấy. Khảo sát ngày nay cho thấy, phần chúng ta nhìn thấy có độ cao hơn phía sau mặt trăng khoảng 3km và có nhiều vật liệu nặng nên mỗi khi tàu vũ trụ đi qua bề mặt này có sự chếnh choáng, mặt trăng nhỏ hơn trái đất 88 lần.
Sao Mộc 1.567.127oC tự quay 9 giờ 55 phút, lớn hơn gấp nhiều lần trái đất, khoảng 318 lần.
Mặt trời quay 250km/s. Nhân thiên hà của chúng ta vô cùng khổng lồ, đường kính lên tới hơn 1000 năm ánh sáng. Chính cái nhân này điều hành hơn 150 tỉ ngôi sao quay quanh nó.
Cơ trời đóng mở ra vào, đừng đem nhân tạo thay vào nhân duyên. Sở dĩ chúng tôi phải dài dòng kể về vũ trụ xa xôi, huyền bí như trên, là bởi: Mọi việc đều có nguyên nhân, “nhân duyên” mà thành, phúc họa đều có nguồn gốc từ quá khứ sâu xa. Tất cả những kẻ tâm linh, cá nhân siêu việt, đều có quan điểm vững chắc về vũ trụ, về xã hội và về con người chúng ta.

***
Gieo nhân lành không chỉ cho riêng mình. Ví như ta trồng cây có thể ta không được hưởng, nhưng nhiều người khác được ngồi dưới bóng mát có nhiều quả ngọt. Luật nhân quả chi phối tất cả từ con người bình thường tới các vị Thánh. Cho nên chúng ta phải nỗ lực rất nhiều để chuyển hóa chất liệu cuộc đời ngay từ đầu, không gây nghiệp ác, không ngược đãi vô tình với người đời, tránh quả báo gấp trăm, gấp ngàn lần như ta gieo hạt lúa sẽ mọc ra hàng chùm… hàng trăm, hàng ngàn lần không biết bao nhiêu mà kể.
Hiểu biết Luật Nhân quả, thường sẽ kiềm chế được nhiều việc, thận trọng khi quyết định. Nếu ai đó không công nhận luật nhân quả, ta thường thấy họ thể hiện qua cuộc sống, việc làm hàng ngày là không tôn trọng công bằng. Nếu có chức quyền càng rõ điều đó, thể hiện rõ sự “ăn hiếp” người khác, họ sẵn sàng chà đạp coi thường mọi người. Cẩn thận cũng là đạo đức, là khởi thủy của nhân quả.
Công bằng nền của công danh
Văn minh như thể bức tranh cuộc đời
Hiểu biết Luật Nhân quả, chắc chắn ta không nỡ làm khổ ai hết, mọi việc làm đều nghĩ đến hậu quả lâu dài và nỗ lực hết mình vì sự an vui của mọi người. Nhân quả là công bằng. Nếu ta tôn trọng sự công bằng là ta đang đi đúng đường đạo. Đạo không ở đâu xa, nó ở rất gần, bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên của con người, nhưng lại rất xa lạ với kẻ ác đạo, tham lam. Lúc nào họ cũng chỉ muốn hơn người, tìm mọi cách chiếm đoạt của người khác làm của riêng mình. Họ không biết rằng khi chiếm được một thì mất mười… thậm chí, nặng còn liên quan đến mệnh yểu, nặng sẽ chìm sâu. Nhưng họ không biết phúc họa có nguồn từ đâu nên rất thản nhiên, như bệnh ung thư khi chưa phát hiện ta vẫn thản nhiên vậy.
Khi lòng tham dục còn thâm
Chợt nghe một tiếng từ tâm vọng về
Bao đời, kiếp mắc bùa mê
Hồi tâm chuyển hướng đi về thiên thai
Có người phạm tội nhưng vẫn “chạy án” thoát tội, không tự chịu khắc phục hậu quả để giải quyết tận gốc, vì họ cậy có quyền, có tiền. Những người nào đã nhận tiền của kẻ phạm tội, tức là vô tình họ đã đỡ cho kẻ phạm tội kia một phần tội lỗi. Người ta thường nói đến chạy án, nuôi án? Những vụ án kéo dài, xử đi xử lại đã cùng năm tháng đi vào lịch sử, tồn tại như thách thức với thời gian. Nhìn lại lịch sử ta thấy, ở những giai đoạn xã hội cũ luật lệ đặt ra chỉ phục vụ lợi ích một nhóm người.
Thuốc làm giả tội lăng trì
Pháp luật giả thì sợ gì phép công?
Họ thường đổ tội cho pháp luật thiếu chặt chẽ. Nhưng nếu chỉ làm đúng cái đã có là đã tốt lắm. Thực ra pháp luật Việt Nam cũng rất chặt chẽ nhưng người thực hiện nó thì khác. Hoặc văn hóa pháp luật chưa được tôn trọng, nó cũng giống như khi tham gia giao thông ngoài đường: Vạch chỉ giới có nhưng họ vẫn cứ lấn đường, đèn xanh đèn đỏ có cả, họ vẫn vượt. Cho nên có nhiều người chết oan vì một người thiếu cẩn thận. Án hình sự chỉ một người vào tù nhưng gia đình họ vẫn sống sung túc… án hành chính chỉ một chữ kí có thể hủy hoại cuộc sống của hàng vạn con người.
Chủ tịch tỉnh Hà Giang ông Nguyễn Trường Tô hủy dự án là như vậy? Họ không biết rằng hủy dự án đang làm là hủy cuộc sống của bao con người lao động, rồi bố mẹ già, vợ con của họ sẽ sống thế nào khi lao động chính trong gia đình thất nghiệp? Án hành chính Việt Nam là để khắc phục những sai phạm, nhưng chưa có chế tài đủ mạnh nên giải quyết còn hạn chế, thậm chí mờ nhạt giữa đúng và sai.
Che chắn, chạy chọt dù có lọt qua. Dù luật pháp chưa đến, thì luật nhân quả vẫn đến. Khi nó đến thì không sót một tí nào, khốc liệt tới mức vô phương cứu chữa. Nói cách khác, “hạt tử” đó đã tự biến thành hư tử, hư thối, lan ra như bệnh ung thư giai đoạn cuối.
Vũ trụ có tứ thời, con người có tứ mệnh. Nếu biết tĩnh tâm giao cảm với vũ trụ, giao thoa với bốn mùa, ta có thể biết và cảm nhận được nhiều việc xảy ra trên toàn thế giới. Khi ta khai mở lục thông. Việc tĩnh tâm là cần nhất sau một ngày làm việc, mà đỉnh cao là thiền định. Hãy hiểu giá trị của cuộc sống là được có những phút giây tĩnh lặng. Hạnh phúc thực sự chỉ chính lúc tâm hồn mình thăng hoa.
Chúng ta đều biết rằng định luật Niutơn có sau. Sức hút trái đất có trước. Nếu con người hiểu rằng sau cái chết, sẽ đi về đâu, tức là họ đã giải mã được phần nào cuộc sống tâm linh.  Hội chứng của con người là luôn đi tìm cái mới lạ, nếu kết hợp và bảo vệ được cái đã có, cái thiên nhiên đã ban tặng sẽ bảo vệ được hành tinh của chúng ta. Trường tồn, trường thọ chỉ dành cho sự cẩn thận, biết lo xa.

***
Chợt nghĩ, khi người ta chết đi, các giác quan thông thường của con người không còn sử dụng được nữa. Nhưng người chết vẫn biết và theo dõi mọi sự dễ dàng qua giác quan đặc biệt thường được gọi là “thể vía”. Đó là trung tâm tình cảm, là tiềm năng ít được khai mở của con người.
Nếu chúng ta rèn luyện “thể vía” ngay từ lúc còn sống và hiểu được luật vô thường sẽ không sợ gì cái chết. Khi đã tích dầy phúc đức cơ thể sẽ rất nhẹ nhàng, hiểu luật vô thường sẽ rất vui vẻ đón nhận, coi cái chết là nấc thang lên trời. Những kẻ ác tâm thì rất hoảng sợ, đau đớn thường bị chết trong sát na, trôi nổi trong ba đường sáu nẻo. Một trong những nguyên lí vũ trụ là cái nặng chìm xuống. Kẻ ác cũng vậy tự chìm tùy theo định nghiệp của người đó lúc còn sống đã tạo tác, tội càng nặng càng chìm sâu. Thực ra không có một vị thần thánh nào đưa ta lên thiên đường hoặc đẩy ta xuống địa ngục, là chính ta tạo nên. Người ta thường nói “trần sao âm vậy”. Tại sao có địa ngục và thiên đường? Cái qui luật tự nhiên ấy đều do trọng lực quyết định, nó như thời vũ trụ tiền sao. Nghĩa là có sinh có diệt. Cái nặng chìm xuống cái nhẹ nổi lên.
Chết là một sự chuyển tiếp sang cảnh giới mới. Còn cảnh giới mới ấy là thiên đàng hay địa ngục, dường như đã được định trước từ khi ta còn sống: nghĩ suy, hoạt động và tu nhân tích đức như thế nào. Kết quả hành trình tại thế quyết định tương lai của chính chúng ta.
Khi sống, do thể xác ta kết cấu bằng các dạng nguyên tử thuộc vật chất cõi trần, nên nặng nhọc và chuyển động rất chậm chạp. Khi chết, thể xác bị hư thối tan rữa, chỉ còn “thể vía” thuộc thần khí nên nó chuyển hóa và tự xoay rất nhanh. Khi chết, do mất nhiệt bốn đại huyệt tự co lại: Hai huyệt lao cung ở bàn tay, hai huyệt dũng tuyền ở bàn chân khép lại dẫn đến mất quân bình âm dương. Khi đến tim nó tự cuốn một vòng tròn 360 độ rồi tự rút lên đầu, tự nó chiếu chụp lại toàn bộ cuộc đời như một cuốn phim. Sau đó bật bí huyệt trên đầu chui ra… dường như bí huyệt đó đã để sẵn ngay từ khi con người mới sinh ra, còn gọi là “thóp”. Những đứa trẻ may mắn được nhà sư chấm 6 nốt trên đầu. Sáu cũng là cung phúc, lộc để rào dậu và bảo vệ xung quanh thóp. Một điểm rất quan trọng trên đầu chúng ta.
Cõi hồng trần chỉ là phần sống nhỏ của cả quá trình sinh - diệt - hóa sinh không có điểm dừng, trong đó có cả cõi vô hình. Thế giới hữu hình và vô hình đều nằm trên con đường tiến hóa mà trong đó có hằng hà sa số các chuyển động, dường như đều phải tuân theo một thể chế là chu trình do tạo hóa đã định sẵn.
Điều quan trọng quyết định tất cả là tư tưởng. Vì tư tưởng có một sức mạnh buộc những thành tố khác phải xoay chuyển. Người còn sống thường nói với nhau bằng lời, người đã chết thì bằng tâm đức nối với tâm đức và cao hơn nữa là tư tưởng.
Nhiều người đã qua đời, nhưng tâm đức của họ vẫn sống và tiếp tục phát triển cùng xã hội. Nó không phụ thuộc vào nghi lễ hình thức, nhưng lại rất cần để tạo dựng sức mạnh nội tâm và sự tập trung đến độ thành tâm. Thậm chí, tâm đức hay tư tưởng của người đã từ biệt cõi đời đi xa, còn có tác dụng như cầu vồng nối từ khởi nguyên đến mục tiêu thành đạt. Khi tư tưởng nền móng đã thiết lập được, chắc chắn ta chỉ còn ung dung đến đích.
Đời người ta có thể chia làm Bốn giai đoạn nối tiếp nhau:
1- Giai đoạn mới được cha mẹ sinh ra phải tập và học mọi thứ từ thuở lọt lòng đến năm Hai mươi lăm tuổi.
2- Giai đoạn lập thân, lập nghiệp, lập gia đình, đi sâu vào cuộc sống, lo tích trữ làm giàu v.v… là từ Hai mươi lăm đến Năm mươi tuổi. (Nói như người Trung Quốc xưa là “Tam thập nhi lập”).
3- “Tri thiên mệnh” là giai đoạn vẫn còn có đôi chút phân vân giữa cái đã có và định hướng phần còn lại của cuộc đời sẽ đi về đâu? Đã có ý tưởng hướng đến tâm linh, nhưng chưa thật chắc chắn, đó là từ Năm mươi đến Bảy mươi lăm tuổi.
4- Giai đoạn cuối cuộc đời “Tòng tâm sở dục bất du củ” sẽ hướng mạnh đến tâm linh. Nếu hiểu biết về cõi vô hình càng sớm sẽ không rơi vào nghịch cảnh, đó là giai đoạn từ Bảy mươi lăm đến Một trăm tuổi.
Khi còn sống, nếu kiếm được nhiều tiền nên làm nhiều việc thiện… đó là cách trả báo tốt nhất cho bản thân. Và kiến thức chính là đạo vĩnh hằng.
Bản thể của con người vốn thanh tịnh. Hãy làm tất cả những gì có thể được để sau này không phải hổ thẹn với lương tâm của thời đại, của chính mình và thử thách của thời gian.
Cái được cốt yếu là khi ta cảm thấy chứ không phải là cái ta nhìn thấy! Nó như là sự rung động của người xem trước một bức tranh chứ không phải màu mè của bức tranh đó. Chất liệu không quan trọng mà quan trọng là cảm nhận của người xem tranh, đọc sách. Cuộc sống phơi bày tất cả nhưng chưa bao giờ ta cảm nhận được đầy đủ.
Tư tưởng có một sức mạnh vượt mọi thời gian và không gian, đó là thần giao cách cảm. Khi con người ta có tình cảm cao thượng, có lòng bác ái bao trùm, có tình yêu thương rộng mở với tất cả mọi người thì trí tuệ sẽ tự bật ra và tự nó tiêu diệt cái phàm ngã, tiêu diệt cái ích kỷ hẹp hòi để hướng đến những điều thánh thiện. “Thể trí” không còn tính cách cá nhân hẹp hòi mà nó đã biến thành Đại trí, Đại dũng.
 Khi sự giác ngộ đã hội tụ đủ thì người sở hữu sự giác ngộ đó cũng sẽ sở hữu những yếu tố để cấu thành một siêu nhân. Vượt qua tâm vọng chấp của thế gian, ai cũng có thể trở thành người xuất thế gian. Có người, thân chưa xuất, nhưng tâm đã xuất thế gian, tất cả việc làm của họ mục đích hướng tới đại lợi cho tất thảy đại chúng, ngày ra đi của họ là ngày vui lên trời.
Quán tưởng khác xa với tin tưởng một cách mù quáng. Hành động cũng vậy. Một người phải khổ nhọc luyện công, kiên trì đến lao tâm khổ tứ mới có thể trở thành siêu nhân. Trên thực tế không bao giờ có một Đấng Thần Linh nào có thể biến đổi chúng ta thành siêu nhân được. Hậu quả là chính những gì do ta tạo nên và phải gánh chịu theo luật nhân quả. Nặng chìm xuống nhẹ nổi lên.
Nhiều người hay cúng bái linh đình, cầu khấn bằng năm bằng mười, dâng sao giải hạn, mua tiền giả đốt tiền thật, gửi xe máy, ô tô, máy bay, điện thoại, nhà cao tầng cho các cụ. Thực tế, không thể nào giải được, hay nói cho đúng hơn không có sao nào làm hại mình. Tất cả là do ta tạo tác, được các tinh tú “thất tinh bắc đẩu” và trời cao chiếu chụp lại các hoạt động và bị phản chiếu như khi ta soi gương. Ví dụ, mặt ta đen và nhăn, khi soi gương không thể thấy nó nhẵn bóng và sáng hơn được. Thiện ác rõ ràng, những gì đã làm ta đều phải tự gánh chịu.
Cố ca sĩ lừng danh thế giới Micheal Jackson từng tốn kém khá nhiều khi ôm mộng phẫu thuật hòng thay da đen thành da trắng… Cái da đen khởi thủy bị mất gốc, sự sống ắt trở nên rất mỏng manh. Nhìn dưới góc độ nào đó, sự đột tử của Vua nhạc Pop giữa lúc đang còn sung sức, không chỉ đơn giản vì dùng thuốc quá liều. Thật đáng tiếc cho một nhân tài mệnh yểu!
Tất cả chỉ mới bắt đầu. Bước đến là bước đi… lẽ thường tất yếu trong tự nhiên là cái nặng chìm xuống, cái nhẹ nổi lên. Như vậy, bắt đầu từ sự thiện tâm, tiếp đến là kiên trì luyện tập để đẩy các tà khí ra khỏi cơ thể, bằng các phương pháp Hatha Yoga - Raja Yoga - Thiền định, dần dà sau đó mới đi đến sự giác ngộ.
 Chúng tôi có những may mắn lớn lao để nhận thấy rằng, ngoài đời sống vật chất hữu hình đầy cám dỗ, con người cần hướng tới đời sống tinh thần, đời sống tâm linh. Ai muốn giác ngộ cũng phải tự mình thực thi một cách kiên trì và sáng tạo cả trong tâm trí và lối sống của chính mình.
Thực tại vật chất và lý luận phải trái không cần đến tư duy, vì tư duy chính là lý luận. Nó chỉ là một bước trong cả tiến trình phát triển. Các thực tại tôn giáo và đời sống tâm linh lại là một bước đi vượt ra ngoài ý thức bình thường. Chính cái vô hình vô ảnh tiềm ẩn trong chúng ta, nhiều khi lại có sức mạnh điều hành mọi hoạt động của con người.
Có ý kiến cho rằng trong chùa không có Phật, mà chỉ có tượng Phật. Phật là vô hình, vô ảnh, biến hóa vô song. Phật đâu có cần chúng ta phải làm chùa to, tượng lớn, cúng tế linh đình. Nếu cần, Phật tự biến hóa là có hết. Phật là tâm của chính mình “Phụng sự chúng sinh là cúng dường chư Phật”. Mồng một, ngày rằm ta thường đến chùa là được chiêm bái khuôn mặt từ bi của Đức Phật, để hồi tâm và thanh thản. Khởi nguyện để thọ nhận ân đức gia trì của Đức Phật.
Trong tâm không có Phật thì ngoài Phật không có tâm. Nếu xa lìa cái tâm của chính mình sẽ không thấy có Phật trong chùa. Ðạo Phật là bản tính sáng suốt của chúng sinh. Sáng suốt sẽ nhìn thấu đất trời, sẽ nhìn thấy tất cả. Tâm Đại bi sẽ thanh tịnh đến cõi Niết Bàn. Tượng Phật được những người công đức cung tiến kết duyên với Chư Phật, tượng Phật được kết cấu bởi những thứ như gỗ mít, hạt xi măng, đất đá… rất bình dị, nhưng ẩn chứa những năng lực huyền bí vô vi vô cùng đến vô lượng.
Phật Pháp hiền hòa độ lượng và luôn luôn hỗ trợ cho những ai đón nhận nó, nhưng lại là sự cảnh tỉnh khắc nghiệt cho bất cứ ai đi ngược lại và phủ nhận nó. Cho nên những người trộm cắp, lấy của đền của chùa thường hay gặp quả báo, rơi vào nghịch cảnh lúc cuối đời. Luật pháp trần gian cũng vậy luôn che chở cho những ai tôn trọng, nhưng rất nghiêm khắc với những kẻ coi thường pháp luật. Ông Nguyễn Trường Tô cũng là một ví dụ điển hình.
 
Mảnh đất Hà Giang đối với chúng tôi có biết bao kỷ niệm vui buồn và cả tri ân mãi mãi.
Hà Giang là nơi trời đất gặp nhau trong một hình thái và trạng huống đặc biệt. Ở đó, sống động cảnh vật trên thế đất có cảm giác vô tận và giàu tính nhịp điệu của miền cao nguyên đá Đồng Văn. Nơi tưởng chừng như khô cằn nhưng lại ẩn chứa trong mình Mười một hệ địa tầng của trái đất và bầu trời dường như không thấy hết chiều sâu của không gian.
Vào những ngày rằm, trong lúc nàng Hằng Nga đang mải soi mình xuống sông Lô trong vắt, khi đứng trên cầu Yên Biên I ở Hà Giang, lòng chợt đầy cảm giác như có thể dùng tay với hái được trăng. Đó là nơi mà con người thấy mình gần hơn với các thiên thể. Bên kia núi Cấm, bên này Mỏ Neo và hai cầu Yên Biên treo ở giữa nối nhịp đôi bờ như một chữ H - “Hát mãi với sông Lô” (tên một tập thơ của tác giả Lê Duy Hảo, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2007 - BT)… Nơi đây, mặt trăng gần như là bạn và cùng với ngàn sao lấp lánh tỏa sáng đầy rừng. Những ngọn núi mang dáng dấp của bao ngọn ăng ten thu phát tín hiệu nhiệm màu. Những dòng sông con suối cũng chở đầy nguyên khí hóa sinh.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang nhiệm kì 2010 - 2015 đã diễn ra sau ngày thị xã Hà Giang nâng cấp lên Thành phố. Hà Giang đã vươn mình cùng Thăng Long – Hà Nội nghìn năm tuổi. Thành phố nơi Địa đầu Tổ quốc có xứng đáng với cái tên và niềm hi vọng của cả nước hay không, còn phụ thuộc rất nhiều vào sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền địa phương. Nhân dân Hà Giang có quyền hi vọng: Những nhà lãnh đạo trẻ nhiệm kì mới này sẽ hết lòng vì quê hương đất nước và việc tập hợp nhân tài vật lực sẽ thành công!
Đạo Khổng cho rằng: Người ứng với thiên thời thì sáng lập được cơ nghiệp. Người chiếm được địa lợi thì nắm được bá vương. Người giữ được nhân hòa thì thành sự nghiệp.
Kẻ bá đạo thì tâm suy nhanh chóng… vì hay vụ lợi cá nhân, kéo bè kéo cánh, hình thức gia đình trị bật tận gốc rễ như chế độ cũ…
Tính tình của con người ứng với ngũ hành các khí trong năm của vũ trụ:
Mộc chủ về nhân: tính thẳng thắn, tình ôn hòa.
Hỏa chủ về lễ: tính nóng nảy, tình cảm rễ lộ.
Thổ chủ về tín: tính tình đôn hậu.
Kim thuộc về nghĩa: cương trực mãnh liệt.
Thủy thuộc về trí: thông minh hiền lành.
Cảm ứng thiên nhân, vận thế là vận mệnh của một người và ta cũng có thể hiểu là xu thế vận động của một sinh mệnh. Nếu ta quan niệm rằng sử dụng con người là sử dụng “cỗ máy hoàn chỉnh nhất”, sẽ dẫn đến điều tất yếu là người sử dụng cỗ máy ấy cần phải có năng lực vượt trội, cốt cách nghiêm chỉnh và lối sống gương mẫu hơn.
Tỉnh Hà Giang có đường biên giới nối liền với nước Trung Hoa dài 274 km. Từ cửa khẩu Thanh Thủy, dòng sông Lô - phía Trung Quốc gọi là Bàn Long Giang, theo sách “Kiến Vạn Lục” của Lê Quí Đôn thì có tên là Mã Giang - chảy qua đây, tới ngã ba Bạch Hạc Việt Trì cũng có chiều dài là 274 km. Công ty Sông Lô của chúng tôi tọa lạc ở nhà số 274 đường Trần Phú, ngay trung tâm thị xã Hà Giang. Đến đây, nổi lên một con số - chỉ duy nhất một con số 274 - để lồ lộ hiển thị đến ba điều thiết yếu không chỉ với chúng tôi mà còn của cả một địa phương là tỉnh Hà Giang. Người vô tâm nhất cũng buộc phải suy nghĩ: Đây là ngẫu nhiên hay là ấn định của một quyền năng huyền bí để dẫn đến sự tất yếu đang hiển hiện đó?
Đuôi của con số 274 là số 4. Theo cách tính của người Trung Hoa, con số 4 có âm sự rất nặng. Người ta gọi nó là số “tử”. Chả thế mà qua suốt ngàn năm lịch sử, biên giới Hà Giang đã từng xảy ra nhiều lần giao tranh khốc liệt. Số 4 cũng có nghĩa là tử với những ai xâm hại nó. “Bốn” cũng có nghĩa là tứ trụ bền chắc cho những ai biết sử dụng, chấp nhận nó. Tương truyền rằng mùng năm, mười bốn, hăm ba, đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn. Ngày nay, cách mạng văn hóa đã thấy rõ, những ngày ấy họ vẫn đi rất đông ngoài đường có sao đâu? Có những “ngày đẹp” vẫn xảy ra tai nạn giao thông khủng khiếp. Thế mới biết đức nhân thắng số, cẩn thận là đạo đức để sinh ra năng lực, để chuyển hóa chất liệu cuộc đời. Nếu cộng các số hợp thành con số 274 kia lại thì ta sẽ được tổng bằng 13. Đây cũng là số trùng với con số Mười Ba (13) vị Mật Tông của Phật giáo. Chúa Giê Su có Mười ba (13) vị Tông Đồ đạo Kitô. Và cũng lại là một số “xui” theo quan niệm của “nửa thế giới” phương Tây. Có lẽ đã đến lúc học nghĩ theo Pitago: Vũ trụ là sự hòa điệu của các con số? Vậy con số 274 có hòa khắc gì với Hà Giang? Nằm ở đâu, giai đoạn nào trong nguyên lí chế hóa của vũ trụ? Chúng tôi xin trở lại vấn đề này sau.
Đã có hàng ngàn năm kiểm chứng để con số Mười Ba đó không phải chỉ là sự vô tình, sự trùng lặp ngẫu nhiên, hay là sự ráp nối của không gian ba chiều. Nhưng để giải mã được sự dị thường do con số đó hay mang lại thật cũng chẳng dễ gì. Công ty Sông Lô mang tên một dòng sông với sự khao khát vô bờ:
Dòng sông nước chảy về đâu
Sao không chảy ngược làm giàu Hà Giang
Xin ai đừng có phũ phàng
Để dòng sông ấy bẽ bàng tương lai
Người ta thường nói Nhất tự âm dương: Chỉ có một âm, một dương mà trời đất đã sinh sôi vạn vật. Ngày nay ta đã có thập phân mười (10) số, nhưng tất cả đều nằm trong nguyên lí chế hóa, có sinh có khắc, qua hoạn nạn đến phần thái lai. Đại nạn có thể sinh đại nghiệp. Bởi trong họa có phúc. Dịch trung bí mật chìm trời đất, tạo hóa thiên cơ chửa vén màn, phúc họa thần minh đều nắm trọn, đời sau nên biết khó truyền ban. Nghĩa là dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghệp.
Câu chuyện về vạn vật của các nhà khoa học vũ trụ cho rằng: Có một hành tinh xuyên qua không gian và thời gian, là nơi phi thường, qui mô rất lớn, nó đẹp tuyệt vời, vô số thiên hà kì lạ… tạo nên tấm mạng rộng lớn trải ra mọi hướng. Đó là một thiên hà hình xoắn bên trong thiên hà đó có một ngôi sao, xoay quanh nó là 8 hành tinh.
Thế kỉ XX vừa qua, con người đã phát hiện về vũ trụ bao la được nhiều hơn so với thời kì trước. Có thể nói, những bí ẩn mới được phát hiện từng làm tổ tiên ta bối rối vì không thể lý giải nổi trong suốt 200.000 năm trước đó. Khoa học vũ trụ đã có tiến triển đáng kể nhưng đều bắt nguồn từ ý trí tinh thần, mà tâm linh là nguồn vô tận.
Những cái mà các nhà khoa học vũ trụ nhận ra như: trái đất và vạn vật xung quanh đều do các ngôi sao tạo ra khi Hyđrô đốt nóng. Tuổi của vũ trụ khoảng 14 tỉ năm và nó còn tồn tại khoảng gấp hơn hai lần con số này nữa. Điều đáng nói là toàn bộ các thiên hà nhiều vô kể, cả thời gian, không gian và các lực tự nhiên đều xuất hiện từ hư vô, có thể trái đất chỉ là một nhánh của tiến hóa.
Từ xa xưa toàn bộ các thiên hà và vạn vật điều tụ ở một điểm, điểm khởi đầu của vạn vật cách đây khoảng 13,7 tỉ năm trước. Để biết được các manh mối này. Các nhà khoa học vũ trụ đã đưa ra rằng: Vũ trụ sinh ra từ một vụ nổ, sự kiện đó gọi là “Vụ nổ lớn”.
Vũ trụ thủa sơ khai thật sự rất kì lạ. Những khái niệm chuẩn về không gian, thời gian không áp dụng được. Nó chỉ là một màng năng lượng rất nhỏ và vô cùng nóng, rồi nó nở ra, trong ánh sáng bức xạ khủng khiếp từ nhỏ hơn một phân tử, nó bằng quả cam trong chưa đầy một phần nghìn tỉ giây, gần như là lập tức Vũ trụ phồng lên và ra đời, từ từ trải ra lớn lên và nguội đi sau mỗi ngày.
Trong vòng một trăm giây, nó lớn bằng Hệ mặt trời, trải ra cả nghìn tỉ cây số. Khi việc này xảy ra, Năng lượng nguyên tử vũ trụ nguội đi và tạo ra vật chất dưới dạng nghìn tỉ các hạt hạ phân tử. Vật liệu đầu tiên ra đời. Nửa số hạt này được tạo từ vật chất, cùng loại vật chất đã tạo nên chúng ta. Phần còn lại làm từ vật liệu trái ngược với vật chất, còn gọi là phản vật chất. Khi gặp nhau, hai thứ này lập tức triệt tiêu nhau. Dường như tạo ra vũ trụ là một qui trình lãng phí. May thay vật chất nhiều hơn phản vật chất, chỉ một trong một tỉ hạt vẫn tồn tại. Thật may mắn cho ta, vì phần dư thừa đó đã tạo nên vũ trụ ngày nay. Có thể nói ta được tạo nên từ khói của vũ trụ lớn.
Khi vũ trụ hình thành được 10 phút, nó đã có đường kính hàng nghìn năm ánh sáng. Sau đó mọi thứ nở ra và nguội đi. Trong khoảng 300 ngàn năm. Cuối cùng sương tan và vũ trụ trở nên hữu hình. Đó là cách mọi chuyện xảy ra. Đó là câu chuyện vô thường và có lẽ kì lạ hơn bất kì giải thích nào của tổ tiên nghĩ ra. Những việc xảy ra tiếp theo cũng rất ngoạn mục.
Đây là giả thuyết: Nếu vũ trụ được tua lại rất nhanh - toàn bộ 14 tỉ năm trong chưa đầy một phút - ta sẽ thấy cách vũ trụ biến đổi từ một đám mây khí thành 100 tỉ thiên hà xoay vần nhảy múa hỗn độn chỉ trong một tích tắc. Hãy suy ngẫm về việc các nguyên tử tình cờ ở cạnh nhau, kĩ thuật tạo ra vũ trụ ở qui mô lớn.
Thứ gì đã vận hành bộ máy đồng hồ vũ trụ? Xin trả lời ngay: đó là trọng lực! Ý tưởng về trọng lực được Niutơn đưa ra vào thế kỉ 17. Có lẽ ý tưởng này đến khi quả táo rơi trúng vào đầu ông. Quả táo giúp ông nhận ra mọi vật hút lẫn nhau. Trọng lượng càng lớn sức hút càng mạnh. Các quả táo bị trái đất hút bạn không thấy bằng mắt, nhưng trái đất di chuyển rất nhẹ về phía các quả táo. Mọi thứ kết nối với nhau thông qua trọng lực. Trọng lực sinh ra từ vụ nổ lớn và hoạt động từ đó đến giờ. Nó giúp giữ chúng ta và quả táo ở lại mặt đất. Trong vũ trụ sơ khai, trọng lực còn đóng vai trò lớn hơn.
Ngay sau vụ nổ lớn, vũ trụ chỉ toàn là khí. Gần như nó trải ra khắp không gian. Hơn 200 triệu năm sau trọng lực bắt đầu hút khí vào với nhau để tạo ra cấu trúc đầu tiên, để vạn vật phát triển. Nhưng việc này suýt không xảy ra. Nếu không có một may mắn khác của vũ trụ, sẽ không có bạn, tôi, ngôi sao, hành tinh hay bất cứ thứ gì.
Chúng ta biết được điều này vì năm 1982, một nhóm nhà khoa học đã dành trọn ba tuần để nghiên cứu. Kết quả cho rằng chính tại các khu vực khiếm khuyết đã giúp các ngôi sao và thiên hà ra đời. Vũ trụ đã có bước đi đầu tiên, trong quá trình tiến hóa để trở thành nơi tươi đẹp như ngày nay. Tất cả là nhờ sự bất thường khiếm khuyết và vận may của thứ tự. Vậy bạn đừng vội trách ai khi họ có khiếm khuyết, có thể khiếm khuyết của người này lại là may mắn của người kia?
Khoảng 13,5 tỉ năm trước, vũ trụ chủ yếu là khí Hyđrô. Trọng lực thực hiện việc lực của mình, từ từ hút khí bằng những đám mây khổng lồ. Hyđrô là thể khí đơn giản nhất, nhưng có tính chất đặc biệt. Nó là nguồn năng lượng khổng lồ. Khí Hyđrô đến khoảng 10.000 độ, nó bắt đầu tạo ra năng lượng thắp sáng các ngôi sao, và tạo ra ánh sáng và hơi ấm cho vũ trụ.
Ở thời kì vũ trụ sơ khai, quá trình tương tự xảy ra lần đầu ở qui mô lớn hơn rất nhiều. Trọng lực nén các đám mây khí Hyđrô hàng triệu năm đến khi sâu ở trung tâm, khi khí Hyđrô nóng để bắt đầu nóng chảy. Ngôi sao đầu tiên sinh ra từ vụ nổ nó đã trút năng lượng vào vũ trụ rộng lớn, một sản phẩm của qui luật tự nhiên vật liệu thô còn lại sau vụ nổ lớn. Nó lớn hơn mặt trời của ta gần 1.000 lần và cháy màu xanh đậm. Tiếp theo ngôi sao này sớm có bạn đồng hành, các ngôi sao tiếp tục sinh ra.       Qui trình tương tự vẫn xảy ra ở mặt trời, nơi sản sinh ra năng lượng ta cần để tồn tại. Nhưng rất lâu nữa để từ đây… xuất hiện một hành tinh có hình hài như ngày nay là trái đất.
Không thể tạo ra thế giới chỉ từ các khí đơn giản như Hyđrô và Hêli. Cần có các nguyên tổ khác, như Ôxy, Các-bon, sắt và nhiều thứ nữa. Nhưng một lần nữa ta lại gặp may. Vì, qui trình giúp các ngôi sao tỏa sáng cũng tình cờ tạo ra các chất như Ôxy, Các-bon và sắt...
Các ngôi sao tình cờ là các nhà máy khổng lồ. Để thấy một ngôi sao hoạt động, hãy tưởng tượng để có thể tách đôi nó, các phân tử Hyđrô cháy tạo ra Hêli, từ đó sinh ra năng lượng của các ngôi sao. Nhưng Hêli hơi nặng hơn Hyđrô, nên nó chìm vào tâm của ngôi sao. Giờ các phân tử Hêli chiếm các vị trí trung tâm. Khi cháy cùng nhau chúng tạo nên năng lượng và hình thành ra nguyên tố mới là các-bon, thành phần cơ bản thiết yếu của mọi sự sống.
Nếu Hyđrô và Hêli
Cả hai không cháy lấy gì sáng sao
Nếu kẻ thấp chê người cao
Hỡi ơi? Sao có trời cao đất dầy
Quá trình này lập lại nhiều lần, ngôi sao dần có nhiều lớp như củ hành, gần tâm là các nguyên tố nặng hơn như Ne-on, Ôxy và cuối cùng là sắt. Giờ mọi thứ đã thay đổi, sắt không tạo ra năng lượng khi cháy, nên lửa bắt đầu tắt. Sắt tích tụ và dầy lên trong lõi ngôi sao đến khi gần như năng lượng còn lại cháy hết. Giờ trọng lực choán chỗ và ép ngôi sao vào lõi. Khi lõi bị ép ngày càng chặt nhiệt độ của nó tăng nhanh… đến khi nóng hơn 100 lần lõi của mặt trời.
Cuối cùng ngôi sao vỡ vụn và nổ tung. Đây là siêu lân tinh. Một ngôi sao chết và một ngôi sao mới ra đời. Trong vài phần triệu giây, một sóng nén khổng lồ quét qua ngôi sao. Vụ nổ lớn đến mức nó buộc một số i-on cháy thành nguyên tố nặng hơn. Đó là cách các nguyên tố nặng như vàng hay platin ra đời, được tôi luyện ở tâm một ngôi sao phát nổ.
Vàng được tạo ra trong một tia chớp chói lòa của hàng tỉ năm ánh sáng trước. Đoạn cuối của quy trình này tạo ra các nguyên tố quanh ta ngày nay. Cơ thể ta được cấu tạo từ vật liệu của các ngôi sao và tim ta đập được là nhờ năng lượng sinh ra các vật liệu đó tạo thành. Tuy một ngôi sao thật kì diệu có thứ hấp dẫn và quyền năng hơn trong vũ trụ. Hãy trân trọng nhẫn vàng trong ngày cưới để sinh ra ngôi sao. Hãy tưởng tượng nếu con người ta là một ngôi sao thì bước đến là bước đi.
Môi trường sống đầu tiên trên trái đất của chúng ta là biển cả. Khoảng 4 tỉ năm trước những loài thực vật đầu tiên tiến lên đất liền. Theo thực vật là những loài lưỡng cư, côn trùng lên theo. Mặt đất lúc ấy đã dồi dào sức sống, có các loài hữu cơ sinh trưởng tạo Ôxy và hình thành nên nó.
Trái đất với tầng đối lưu chiếm khoảng      10 km từ mặt đất lên phía trên, tiếp đó là tầng bình lưu trong đó có tầng Ôzôn, tiếp tầng trung lưu, tầng nhiệt và tầng ngoài. Tầng nhiệt có sự tuyệt vời của cực quang.
Tầng đối lưu là nơi lưu giữ hơi ấm mặt trời, tầng bình lưu triệt tiêu đa phần bức xạ có hại của mặt trời, sau đó là giới hạn của vũ trụ cứ thế tiến xa, ngoài vũ trụ trái đất còn một lớp bao bọc chính nó.
Trái đất có một hệ thống từ trường khổng lồ gọi là từ quyển. Từ quyển khiến gió của mặt trời chệch hướng trong đó có hạt proton và electoron di chuyển với tốc độ rất cao. Nhưng có một phần rất nhỏ gió mặt trời lọt vào lớp từ trường trong cùng va đập với bầu khí quyển và tạo thành chất dẫn điện cho trái đất như một động cơ, khi tới trái đất được vào hai đầu cực chúng tạo thành cực quang.
Bầu khí quyển (tầng đối lưu) dày khoảng    10 km chiếm một phần mỏng so với bán kính trái đất. Bán kính trái đất dày 6.400 km. Tầng đối lưu rất mỏng so với bán kính trái đất. Nhưng bầu khí quyển có nhiệm vụ bảo vệ không cho nó gây hại cho trái đất như: tia cực tím của mặt trời, những dải hạt siêu tốc độ, tia vũ trụ cùng nhiều thứ khác nữa. Tầng bình lưu phía ngoài đa phần bị tia cực tím của mặt trời hấp thụ, trên cao là tầng điện lưu ở đó có sự hiện diện của từ trường.
Mặt trời luôn xả ra những tia cực tím và tia phóng xạ, những loại tia như vậy luôn nguy hiểm với các cơ thể sống, nên ra ngoài trời nắng không đội mũ nón rất dễ bị ốm, nặng sẽ bị cảm, đột tử… Bảo vệ trái đất khỏi những tia gây hại như vậy là tầng bình lưu dày 11 km, độ cao là 21.000 m so với mặt đất trong đó có tầng Ôzôn, tầng Ôzôn có tác dụng ngăn chặn các tia cực tím của mặt trời xuống trái đất. Tầng bình lưu ngăn cản các tia cực tím, còn từ quyển của trái đất có tác dụng hấp thụ các tia vũ trụ có bức xạ
Tầng đối lưu bao phủ trái đất như thế nào? Mặt trời mà ta nhìn thấy ở đường xích đạo, nước biển bốc hơi lên cao hòa vào trong không khí, hơi nước tụ tạo thành mây, rồi mây biến thành mưa, mưa lại trở về biển. Hơi nóng từ mặt trời làm nước bốc hơi, hơi nước lại tạo thành mây thải nhiệt vào trong bầu khí quyển, cứ thế vòng tuần hoàn tiếp diễn, mây bốc lên cao, cao tới 10.000 mét lên tới danh giới giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu thuộc vành đai xích đạo, không khí có hơi nước bốc lên cao tạo thành mây và tạo nên những cơn mưa lớn.
Trái đất là cái nôi của sự sống khi nó hội tụ đủ các điều kiện, đó là các tầng bao bọc trái đất, không có các tầng khí quyển thì không có sự sống trên trái đất. Trái đất có khoảng cách chuẩn so với mặt trời mà sự sống hình thành, phát triển và sinh sôi. Nhưng con người đang là thủ phạm phá hủy sự sống trên hành tinh của chúng ta. Trái đất, cây xanh… phải mất hơn 4 tỉ năm mới tạo được tầng Ôzôn lá chắn bảo vệ sự sống trên trái đất như ta ngồi dưới bóng cây. Vậy mà chỉ trong một thời gian gắn loài người đã chặt phá rừng… tạo ra lỗ hổng tầng Ôzôn đe dọa sự sống. Cần phải làm gì để giải quyết vấn đề nhức nhối này là trách nhiệm của chúng ta.

***
Tỉnh Hà Giang có 22 dân tộc anh em. Cứ mỗi độ xuân về, người Dao và người Phà Thẻn nơi đây lại hay tổ chức Lễ hội Nhảy lửa theo phong tục từ giáp Tết Nguyên Đán đến ngày Nguyên Tiêu. Trong dịp này, họ thường thực hiện bài múa rùa và múa gậy bên đống lửa. Thực ra, cây gậy dùng để múa chỉ là cái chày giã gạo thường ngày. Nhưng khi thầy pháp đã thổi vào đó một câu thần chú của người Dao và hô “biến” thì cây gậy vốn chỉ là cái chày giã gạo đó bỗng trở nên kỳ bí vô cùng: hai người, thậm chí năm đến sáu người khỏe mạnh cố dùng hết sức cũng không thể ấn được đầu cây gậy ấy chạm xuống đất! Càng cố sức ấn, càng gặp phải phản lực mạnh mẽ đến ghê người.
Nhóm nghệ nhân người Dao từng thực hiện lễ múa gậy bên đống lửa này đã được chúng tôi mời về biểu diễn tại Khu Triển lãm Vân Hồ - Thủ đô Hà Nội vào dịp tổ chức Lễ hội Lục Bát lần đầu tiên, mùng 6 tháng 8 năm Kỷ Sửu. Những người xem đã vô cùng kinh ngạc khi được tận mắt chứng kiến một sự thật hết sức kỳ bí mà không thể lý giải nổi. Hình như nó không nằm trong tri thức và bộ óc của nhiều người.
Lễ múa gậy cầu trời kể trên của người Dao không chỉ đầy vẻ huyền bí mà còn ấm áp tình người đối với thiên nhiên tạo hóa. Nó thực sự phát ra từ tâm để đến linh. Đây cũng chính là điều, là quá trình mà nhà Phật gọi là Xa luân Bốn (4). Tái sinh, chính pháp bất diệt. Chính pháp đó hiện hữu trong mọi người khi giác ngộ. Và, nhất định sẽ tìm thấy lại trong trái tim của mỗi người dù có lúc ai đó đã “lỡ bước sa cơ”.
Bí pháp tâm linh là sức mạnh siêu hình nhưng độ cảm thụ của mỗi người một khác và mỗi dân tộc. Trước khi nhóm người Dao thể hiện Lễ tục bằng hình thức múa gậy bên đống lửa tại Khu Triển lãm Vân Hồ, chúng tôi đã đề nghị những nhà quản lý tại đây cho đốt lửa nhưng không được chấp thuận, bởi họ sợ cháy nổ. Hơn nữa, hôm đó cũng rất đông người tham dự Ngày Thơ Lục Bát Việt Nam. Họ đứng chật kín cả sân trong sân ngoài khiến nhiều lúc đường Hoa Lư kề bên cũng bị tắc nghẽn… không thuận tiện cho việc nổi lửa.
Phải kiên trì thuyết phục mãi, lễ tục của người Dao mới được tổ chức thực hiện vào buổi tối. Thường thì buổi tối hình ảnh sẽ đẹp hơn bởi ánh lửa và “sao than” bay lên sẽ thỏa sức khoe màu. Vài bó củi được chở từ Hà Giang về và một lễ vật nho nhỏ để cúng đã được chuẩn bị sẵn. Những bó củi khô chất chụm thành đống vừa được đốt lên, ngọn lửa đang rừng rực cháy thì đúng lúc đó giông bão và mây đen kéo đến làm mưa rất to. Lễ tục Múa gậy bên đống lửa của người Dao Hà Giang tại Hà Nội có nguy cơ bị bỏ dở giữa chừng.
Nhưng cũng lúc đó, trong số người tham dự và trực tiếp chứng kiến còn có ông Triệu Đức Thanh. Ông Thanh là người Dao, lại nguyên là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang. Dù nghỉ hưu đã mấy năm rồi, nhưng người Hà Giang vẫn tôn kính, vẫn yêu mến gọi ông Triệu Đức Thanh là Chủ tịch. Ông về dự Hội nghị Khắc phục hậu quả Chất độc màu da cam tại Hà Nội nên ông Thanh cũng đến dự và có mặt trong lúc đồng bào ông hành lễ. Xin được nhắc lại, ông Thanh là người Dao, vốn rất được lòng những người cùng dân tộc với ông và đông đảo người dân của tỉnh Hà Giang cả trước, trong và sau khi tại chức Chủ tịch tỉnh. Đối với đồng bào mình, ông Thanh cũng có vai trò không khác gì mấy chức vị già làng mà đồng bào Tây Nguyên dành cho Anh hùng Núp. Ông Thanh rất hay làm thơ và đã cho xuất bản nhiều tập thơ. Ông Thanh có giọng nói chậm rãi chân thành. Đặc biệt hơn, con người ấy lại rất hóm hỉnh thường hay kể chuyện cười mọi lúc mọi nơi mỗi khi gặp người “hợp cạ”. Nhiều chuyện ông kể đã hàng chục năm nay nhưng người ta vẫn bật cười mỗi khi nhớ lại… Họ bảo mấy “em xi” (MC) trên truyền hình còn thua xa ông Triệu Đức Thanh nhà mình…
Khi lửa vừa cháy mà trời nổi giông bão, ông Triệu Đức Thanh giật mình và buồn bã. Bởi trời làm mưa không chỉ xóa đi bao công sức chuẩn bị nhen nhóm của đồng bào ông, mà còn làm vơi đi niềm tin của những người dự khán trước một lễ tục thiêng liêng có từ ngàn đời của người Dao Hà Giang. Như muốn động viên, có người nói nhỏ vào tai ông rằng: Xin hãy yên tâm, trời sẽ tạnh trong vài phút. Ông Thanh nghe rõ nhưng chưa tin. Lục tự đại minh không thể sử dụng bừa bãi. Nhưng vì thủy hỏa giao tranh… con đành phải khấn… như có một lằn chớp vụt qua. Chừng dăm phút sau, một ánh chớp xanh lạnh ngắt rạch ngang kéo theo tiếng sấm chấn động giữa trời vọng vang, mưa ngừng hẳn.
Mọi người đang hụt hẫng bàng hoàng… có thể bởi lễ tục vừa triển khai đã không thành, có thể bởi ấn tượng về sức mạnh nhãn tiền của bão giông sấm chớp, có thể bởi sự dừng sững đột ngột của những hạt mưa vần vũ giữa lúc trời vẫn dày nặng mây đen… mà không để ý đến ngọn lửa tưởng chừng đã tắt kia đã cựa mình vươn cao và bùng phát hân hoan từ lúc nào không biết. Một số người ló mặt ra. Mọi người nhanh chóng rời khỏi chỗ nấp với ánh lửa hồng ấm áp rực rỡ trên mặt.
Trong lúc nhóm nghệ nhân người Dao mang tâm trạng không biết tại sao trận mưa to lại đột ngột dừng hẳn đang khẩn trương tiếp tục hành lễ, trong lúc mọi người tham dự đang cười vui xúm lại để tận mắt theo dõi thì chỉ có một người… là ông Triệu Đức Thanh đang tận tâm thành kính tạ Trời Đất vừa ban ơn ban phúc cho đồng bào mình. Cùng với ông Thanh, có thể còn vài ba người biết chuyện nữa.
Đêm ấy, tại Trung tâm Triển lãm Vân Hồ - Hà Nội, Lễ tục Múa Gậy bên đống lửa của người Dao đã thành công tốt đẹp. Sự kỳ bí của cây gậy vốn chỉ là cái chày giã gạo của người Dao đã được kiểm chứng xác thực của cả những người không tin. Đó là một đóng góp mang nhiều ý nghĩa cho sự thành công của Lễ hội Ngày Thơ Lục Bát lần thứ nhất, mùng 6 tháng 8 năm Kỷ Sửu.
Nhưng điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là sự linh ứng hết sức huyền bí của những lời khấn mang tính chất thần chú của người Dao đối với Trời Đất và những người hành lễ đối với cây gậy vốn chỉ là cái chày giã gạo. Sự linh ứng ấy ở đâu ra? Tại sao lại có mối liên kết huyền bí đến không thể tin được giữa những thực thể dường như không thể liên kết? Vì sao những lời khấn và câu thần chú của một người… hoặc một dân tộc lại hiệu nghiệm và có sức mạnh đến vậy?…
Có lẽ phải gác qua một bên những lý luận khái niệm và thực nghiệm khoa học khô cứng, mới có thể cảm nhận để hiểu được lý lẽ thâm sâu đến vô cùng của tâm thức. Đó là lý lẽ của đức tin phát ra bằng âm thanh vi diệu, nên tai không nghe thấy và óc cũng chẳng định hình nổi nếu không được cảm nhận bằng trực giác bén nhạy của một tâm hồn hướng thiện thực sự.
Đúng như quan niệm của Nhà Phật: Sự linh ứng và sức mạnh của thần chú Mantra không thể diễn tả được bằng lời.
Rõ ràng, khi sự tu luyện đã đạt đến công năng cao cấp, sẽ có khả năng tạo ra lực tương tác với cả không gian ba chiều thông qua linh giới. Cao hơn nữa là khi tiến được vào không gian bốn chiều, lúc đó đã đạt đến độ thông linh.
Trong dân gian, một số ít người cũng có khả năng thông linh, do tự nhiên đắc sự cảm ứng mà xuất hiện công năng như là vô sự tự biết, vô lý tự thông. Có người tuy văn hóa thấp kém mà công năng lại khá cao. Đây là một thực tế không thể xem thường.
Đặc biệt điều chúng tôi muốn gửi tới bạn đọc rằng: Tu tập còn có tác dụng rất bổ ích cho cuộc sống và cả trong công việc của chính mình như: Nâng cao sức khỏe, hạn chế và đẩy lùi bệnh tật. Chúng tôi đã vận dụng vào việc tìm mạch nước ngầm… tại gần khu vực nhà máy chúng tôi. Trước đó, nhiều đơn vị bó tay vì không có nước để sản xuất, họ đã tốn kém hàng trăm triệu, thậm trí hàng tỉ đồng vẫn không có nước, vì khu vực đó toàn là núi đá, nhiều hang động Castơ nên khoan sâu hàng trăm mét vẫn không có nước. Chúng tôi chỉ dùng quả lắc nhỏ bằng đầu ngón tay út đã tìm ra mạch nước ngầm chính xác, phục vụ đời sống hàng trăm người lao động và cả nhà máy. Tiết kiệm nhiều tỉ đồng không phải chi phí. Một nơi khác các đội khoan chuyên nghiệp làm nhưng cũng không có kết quả, khi chúng tôi tìm nước theo phương pháp trên khoan chỉ 36m nước đã tự phụt lên mặt đất. Chúng tôi quan niệm sự biết ấy là “ngẫu nhiên” may mắn.
Một sự may mắn nữa là đã tìm ra mười bảy đời dòng họ nhà chúng tôi rất chính xác, mà trước đó lưu lạc tưởng chừng không bao giờ tìm được nữa. Khi còn sống, các cụ nhà tôi chỉ thường tâm niệm trong khát khao, cầu khấn trong ngày giỗ tổ tiên… “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe” Nguyên ý của chữ Hán là “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” chỉ một câu, một ý thôi tưởng chừng như rất dễ, nhưng để hiểu hết giá trị thì rất cần thời gian và lòng kiên nhẫn suy nghiệm một cách chín chắn.
Có người nói “Ông” biết nhiều nghề “độc đáo”, thì tại sao không “chuyển ngành” làm ăn cho rễ phát đạt hơn. Tôi quan niệm rằng: ở đời khi trời cho sống ngày nào thì điều tối thượng là “một vừa hai phải” không làm trái, không lấy đạo nuôi đời. Hơn nữa lấy một giọt nước của đất trời cũng cần phải rất cẩn thận “một vừa hai phải” tiết kiệm với sự thật cần thiết, đúng mức không làm bừa. “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, là những tội nặng trên đời khó lí giải. “Một năm làm nhà ba năm gặp hạn” là những cái xưa nay thường nói nhưng cũng chưa có ai lí giải được.
Ngay khi chuẩn bị xây dựng nhà máy của Công ty chúng tôi ở Phú Thọ, cũng là lúc kiến trúc sư nước ngoài và ông Vũ Chí Thành, người đã thiết kế và xây dựng nhiều khu du lịch ở miền Nam được công ty mời đến. Chúng tôi vừa khai thác chế biến khoáng sản, vừa qui hoạch xây dựng cảnh quan thân thiện với môi trường. Để phát triển du lịch làng nghề gốm sứ tại đây. Hy vọng, lợi nhuận làm ra sẽ lấp đầy những nơi đào bới san ủi để môi trường xanh - sạch - đẹp hơn. Đem lại lợi ích cho khu vực, cho người dân niềm tin và cuộc sống tốt hơn.
Khi quyển sách nhỏ này gần xong bản thảo, tôi chợt nghĩ cần mấy tấm ảnh để làm kỉ niệm. Nhưng tìm mãi không ra những tấm ảnh ngày ở Ấn Độ. Cả vợ con tìm giúp nhiều ngày cũng không thấy, tôi nhớ rất kĩ đây là một album do những người Ấn chụp tặng tôi nên không đưa vào tủ sấy cất giữ như các loại băng đĩa khác… trong lúc vô vọng tôi chợt nhớ đến quả lắc, thế là lại một lần nữa nó giúp tôi tìm ra những tấm ảnh tưởng như đã thất lạc…

6. TỪ “SỐ PHẬN LUÂN HỒI”…
ĐẾN “TÂM XUẤT THẾ GIAN”

Trong cuộc đời của mỗi con người chúng ta, thật khó để thấy rõ và hiểu hết ý nghĩa của những sự việc và hình ảnh kỳ lạ xảy ra đan xen chằng chịt như những mối dây trong số phận của chính mình.
Theo quan điểm Phật giáo: một thân phận với vô số quan hệ tương tác diễn ra cùng với nó, chúng tôi tạm gọi là nghiệp lực. Đó là sự tạo tác của chính ta, cả từ trong quá khứ, cho nên người biết cần thiết phải thi thoảng “nhìn lui”, để thấy lại được những mối dây của cái mạng lưới này, chúng ta thường gọi đó là cuộc đời để xem nó xuất phát từ đâu và vận động như thế nào để rồi bước trên con đường mây trắng.
Một cái nhìn, một ý nghĩ lành mạnh, một lời nói chân thành, một câu ca dao, hay một điều chính niệm… cũng có thể gợi nhớ những điều tưởng như là tình cờ nhưng lại có thể sinh ra năng lượng làm thay đổi phần đời còn lại của chúng ta và hằng hà sa số các số liệu đang chuyển động, vì bất cứ một việc gì đều có liên quan, ảnh hưởng lẫn nhau trong vũ trụ bao la. Tuy nhiên, sử dụng công năng đặc biệt cũng cần con người có đắc sự cảm ứng đặc biệt “tam mật tương ứng” là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Với đời sống tâm linh giàu có, thể hiện qua những việc làm và lợi ích cho số đông, vì cái lợi lạc cho đại chúng sinh, mà chúng ta có phát nguyện, không nhằm lợi lạc danh tiếng cho riêng mình.
Ví như những ý kiến sắc sảo và tâm huyết của các Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Lân Dũng, Dương Trung Quốc, Lê Văn Cuông… khi chất vấn Thủ tướng Chính phủ tại kỳ họp XII năm 2010, cũng là một vấn đề đáng để chúng ta suy ngẫm. Những ý kiến đó đã vượt qua thời gian và chở đầy năng lượng. Đó là những chiếc chìa khóa cắm vào không gian tâm thức để mở ra nhiều bí ẩn nằm sâu trong quá khứ. Còn thụ nhận được những gì là do chính ta hành trì: Thân, khẩu, ý…
Những điều khoa học chưa chứng minh không có nghĩa là không có! Chân tâm của con người là bản thể sẵn có và ai cũng có. Phật tâm và Phật tính có lúc khác nhau nhưng cùng một gốc. Chỉ khác nhau khi bị tác động. Chính cái dĩ vãng đã làm ảnh hưởng đến đời sống hiện tại của chúng ta một cách không thể chối bỏ.
Vụ án liên quan đến một vài cán bộ tha thóa của tỉnh Hà Giang chỉ mới bắt đầu. Rõ ràng nó không phải ở phía trước, mà tạo tác của nó đã nằm sâu trong quá khứ. Cái “hạt tử” ấy đã không được loại trừ thì đương nhiên nó sẽ phát cành hư, đơm lá thối, rất khó kiểm soát.
Ung nhọt tự nó sẽ bật ra. Giống như bệnh ung thư không có thuốc chữa và cũng không có sức mạnh nào có thể chế ngự được. Bệnh ung thư nếu động dao kéo, “bản án tử hình” sẽ được tuyên, thậm chí còn không toàn vẹn. Bài học chính là phải hiểu được cốt lõi và đến tận gốc ý nghĩa của ba chữ Tham - Sân - Si để đừng bao giờ tạo nên nghiệp chướng.
Như phần trên chúng tôi đã bày tỏ: Hiểu luật nhân quả sẽ tránh được nghịch cảnh. Hy vọng không xa, Luật nhân quả sẽ được các giảng đường, được mọi người thụ nhận một cách trân trọng và trở thành bí quyết sống của mỗi người.
Một người sáng suốt không thể đi theo kẻ u mê. Để đến được bờ cõi viên mãn của thế giới tinh thần. Độc lập và tương tác nếu ta biết kết hợp giữa triết lý phương Đông với khoa học thực tiễn của phương Tây là ta đã giải phẫu được phần nào thế giới tâm linh trong Phật pháp.
Nếu ta coi thế giới không gian gọi là vũ, thế giới thời gian gọi là trụ, thì Vũ trụ do không gian và thời gian hợp thành gọi là vũ trụ vô cực.
Lí của vũ trụ không lời
Sách là sai đúng của người viết ra
Người ta không ai toàn thiện hay toàn ác cả? Không ai tránh được quy luật Sinh - Lão - Bệnh - Tử, để rồi ai cũng phải chết! Trời đất thiên nhiên đều có từ trước khi ta sinh ra và vẫn còn sau khi ta đã chết. Thân xác tan rữa… chỉ còn lại linh hồn. Linh hồn chính là hiện thân của thể vía.
Chết không phải là hết, cũng không phải là bắt đầu. Mọi thực thể đều từ vô thỉ sinh ra và luôn luôn biến đổi vô thường, bước đến là bước đi.
“Cùng chung một chuyến đò ngang
Người thì sang bến người đang trở về
Lái đò lái mãi thành mê
Sang về chẳng biết mình về hay sang”
Chúng ta sẽ không ngừng tái sinh hết kiếp này đến kiếp khác trong lục đạo luân hồi. Nếu ta hành trì tu tập tốt để hiểu và không còn mong muốn tái sinh “vãng sanh” ta đã trở thành một vị Thánh. Vì không có tái sinh thì vòng luân hồi chấm dứt. Đó chính là một sự giải thoát nhập cõi Niết Bàn, trong dân gian thường gọi là lên trời.
Tất cả các pháp môn trong Phật pháp đã chứa đầy ân đức gia trì của Đức Phật. Tu tập miệt mài với một dòng truyền thừa không gián đoạn, đều có thể đạt quả vị. Nếu người ta quán đảnh và kết nối căn bản với thượng sư bậc thầy Tsaway lama và bản tôn Quán Thế Âm sẽ càng nhận được sự tăng trưởng đến vô hạn.
Nếu ta xa lìa tất cả các lỗi lầm, vượt qua tâm vọng chấp của thế gian sẽ tự nảy sinh ra tâm xuất thế gian. Thế cuộc vô thường “Thường, vô thường không”. Ðạo Phật đem lại cho người hành trì quả vị không bị luật vô thường chi phối. Hơn thế, dứt trừ được phiền não còn có thể đạt đến quả vị Niết Bàn.
Hãy làm chủ cuộc đời, chứ không phải làm nô lệ cho sự sống, thể xác! Khi nắm bắt và hiểu biết về ba cảnh giới: Thiên - Địa - Nhân. Không nên ngồi chờ đến ngày khoa học chứng minh được tất cả mà tự thân mỗi người cần nỗ lực hành trì ứng nghiệm.
Quá khứ, hiện tại, tương lai… là cả một chặng đường dài quán chiếu, sự tinh tấn của con người nhằm vượt khỏi si mê, ra khỏi sinh tử luân hồi. Đó là điều thiêng liêng, là nhiệm màu và huyền sắc. Nhưng để ứng dụng được vào thực tiễn cuộc đời còn tùy thuộc sự nỗ lực, tự thân của mỗi người trên suốt hành trình mới có thể kết thành chính quả. Chuyển họa thành phúc, tu nhân tích đức, thúc đẩy thăng hoa… cần như hơi thở trong suốt quá trình hành trì của mỗi người trên con đường Đạo.
“Đạo là biển cả mênh mông
Ta như giọt nước giữa lòng biển khơi
Dù đi hết cả cuộc đời
Vẫn không đủ để thấy trời bao la
Đường đi dù sẽ rất xa
Nhưng lòng kiên nhẫn còn xa hơn đường”
Người ta thường cho rằng, có nghĩa là trần sao âm vậy âm dương đồng nhất lý. Tiếc rằng, từ suy nghĩ đơn giản và quan niệm trong sáng đó, người ta đã quá lạm dụng các kiểu cúng bái đốt nhiều vàng mã để cầu danh cầu lợi, dẫn đến mê tín dị đoan lạc lối lạc đường… mê mà chưa hiểu là mê tín.
Nhiều người đã nhầm lẫn giữa quán tưởng có ý nghĩa trong sáng với ước muốn cầu danh cầu lợi hết sức phàm tục. Nếu tổ chức cúng bái mà cầu được ước thấy như vậy, hẳn những nhà giàu có thể bỏ tiền của ra thuê nhiều người “cúng” nhiều lần chẳng mấy chốc đất đai, tiền bạc của cả thế gian này sẽ về hết với họ? Chuyện bà Chúa Kho cho vay tiền thật, thì chẳng cần đến ngân hàng làm gì!
Chuyện bà bán sắt vụn vất vả quanh năm… chiều về mua nải chuối và 5 nghìn đồng dúi vào tay Phật cúng; cho con trúng đề, trúng độc đắc?
Có những người có nhà rộng hàng trăm m2  ở Hà Nội, nơi Thủ đô đông người, (theo điều tra dân số năm 2009 dân số Thủ đô trung bình là 6.472,2 nghìn người trên diện tích 3.344,6 km2, mật độ dân số 1.936 người/km2). Nếu cứ cúng vái bằng năm bằng mười mà được thật thì những người khác họ sẽ ở đâu?  
Người ta không biết rằng chỉ vì danh lợi mà cầu cúng kiểu đó là u mê, là tự biến mình thành tín đồ khờ khạo cho những kẻ buôn thần bán thánh lợi dụng. Chỉ có tự mình tu tập, đi theo con đường của Đức Phật dẫn dắt mới có thể đến được sự thanh thản, tốt lành.
Tín ngưỡng Phật giáo và Tuệ giác Phật giáo khác nhau. Khoảng cách khác nhau đó là rất nhỏ, rất mỏng manh và mông lung đến khó xác định. Tín ngưỡng Phật giáo rất gần với tín ngưỡng dân gian nên nó dễ bị pha trộn, dễ làm người ta nhầm tưởng và lẫn lộn.
Chúng ta không nên thần thánh hóa con người. Có một số nhân vật nổi tiếng thế giới, tuy đã tuyệt tích, nhưng ý chí không cam chịu làm nô lệ cả về thể xác và tinh thần của họ chính là tự sắp xếp cho cảnh giới sẽ đến.
Vụ việc giữa Sông Lô với Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang đã khiến Báo Người đại biểu Nhân dân cho loạt bài ấn tượng “Cải cách tư pháp qua vụ án Sông Lô”. Chỉ một vụ việc nhỏ của một doanh nghiệp mà nảy ra ý kiến góp phần cải cách hành chính, cải cách tư pháp của một quốc gia, đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân cả nước, thì mới thấy tiếng nói của báo giới và dư luận quan trọng biết bao trong đời sống xã hội hiện nay.
Con người có hai phần thể xác và tinh thần. Khi ta nhìn thấy hình ảnh của ta trong gương thì đó chỉ là phần bên ngoài. Cũng như giải phẫu sinh lí chỉ là thể xác, phần chân thực là tinh thần còn gọi là tâm hồn. Tâm linh mới là chân thực. Trí tuệ của con người thông qua ngũ giác quan “nghe, nhìn, ngửi, nếm, tiếp xúc” sẽ cảm nhận được bên ngoài. Máy móc dù hiện đại đến đâu cũng chỉ tăng thêm cảm nhận của ngũ giác như: nhìn xa hơn, nghe rõ hơn, to hơn mà thôi. Máy móc dù hiện đại thông minh đến mấy, cũng do con người tạo ra và không thể thay thế con người.
Trong thể tinh thần còn có bộ phận cảm nhận siêu ngũ giác, là tiềm năng của con người chưa được khai mở. Tiềm năng ấy trong chúng ta đều có, ai cũng có nhưng chưa phát hiện và chưa phát huy vì nhiều nguyên nhân che lấp mất khả năng. Nhiều khi chính chúng ta tự làm mất khả năng siêu phàm của mình. Mỗi đời người chúng ta chỉ sử dụng một phần triệu tế bào não mà thôi, còn lại bỏ trống. Ví như các máy tính hiện nay đều được thiết kế công dụng rất lớn, nhưng ta chưa dùng hết là bao.
Khi con người thiết lập được cái nhìn toàn diện về vũ trụ vô cực, không gian ba chiều, bốn chiều và đa chiều thì khả năng phát triển sẽ khác xa khi tâm vật hợp lực.
Những căn cứ để đưa ra là theo trí tuệ của các bậc hiền triết làm nền tảng, mỗi người muốn đạt tới cảnh giới nào đó cần phải đích thân, tự mình tu trì kiểm chứng mới được. Thời gian luôn ẩn trong không gian, sự tồn tại của nó như thế nào đều là tất yếu khách quan, nhưng nhìn nhận như thế nào lại là do chủ quan, năng lực của mỗi con người.
Thấy và hiểu rất gần nhau nhưng lại rất khác nhau. Học tập hành trì theo Phật pháp để được giải thoát, để trở nên toàn thiện như những đấng cao cả, như Phật Thích Ca, như Chúa Jesus… những tư tưởng sâu xa huyền bí của các Ngài không dễ gì chúng ta hiểu thấu. Các Ngài phụng sự thế gian một cách cần mẫn thầm lặng với tư tưởng cao siêu khoáng đạt và lòng yêu thương bác ái bao trùm. Đó là những sức mạnh có hiệu lực vô cùng mạnh mẽ vượt cả thời gian và không gian. Những kẻ “sơ cơ” và những “người trần mắt thịt” như chúng ta không dễ gì thấy được uy đức vô hình của các Ngài.

***
Con đường của Đức Phật dẫn dắt chúng sinh thật dễ hiểu. Đó là giảm đến bỏ hẳn Tham - Sân - Si để dấn bước trên con đường Từ - Bi - Hỷ - Xả, còn được gọi là Tứ vô lượng tâm.
Nhưng trên thực tế không mấy ai đoạn tuyệt được Tham - Sân - Si. Ví dụ đơn giản như khi nhìn vào những chữ ghi rất rõ trên bao thuốc lá, ai cũng thấy và hiểu được rằng hút thuốc là có nguy cơ ung thư phổi, ảnh hưởng đến sức khỏe, ảnh hưởng tới mọi người xung quanh nhưng nhiều người vẫn cứ hút.
Khoảng cách giữa nhận thức và thực hành thấy gần vậy nhưng rất xa. Nếu con người không có ý chí quyết tâm hành trì sẽ thất bại. Loại bỏ Tham – Sân - Si là vấn đề không đơn giản. Cũng như việc chống tham nhũng hiện nay, kiên quyết đến mạnh mẽ và rốt ráo như Trung Quốc cũng đâu có thể loại bỏ ngay được. Ai cũng hiểu Tham – Sân - Si là không tốt, nhưng những lợi lộc mang tính chất đáp ứng tức thì cho cuộc sống cá nhân đã làm mờ mắt khiến nhiều kẻ sẵn sàng trà đạp lên cả cái tốt. Từ - Bi - Hỷ - Xả là rất tốt, nhưng không dễ để thấy được kết quả tức thì. Vậy là con người cứ tiếp tục chìm đắm trong mê lú và “khổ vì tiền” vẫn là khúc ca ngàn năm chưa dứt.
Đức Phật dùng hình tượng con bò kéo xe rất gần gũi đơn giản để chuyển hóa cái nhìn, cách nghĩ cho tư tưởng vi tế của con người, nhưng cũng không dễ dàng để có thể hiểu được ngay. Xin đơn cử hai khái niệm “Ý” và “Pháp”:
- Ý dẫn đầu các Pháp, Ý làm chủ ý bảo, nếu với Ý ô nhiễm, đau khổ bước theo sau, như bóng không rời hình.
- Ý dẫn đầu các Pháp, Ý làm chủ ý bảo, nếu với Ý thanh tịnh, nói lên hay hành động, an lạc bước theo sau như xe chân vật kéo.
Bởi thế, mục đích chính của nhiều người tìm đến với Đạo Phật là để giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng phải hiểu khổ đau từ đâu đến và xa lìa nó như thế nào? Khi mọi sự đau khổ đều bắt nguồn từ sự vô minh, nhận thức sẽ quyết định tất cả. Kiến thức nhiều sẽ có tài năng lớn, Khả năng phán đoán nhận định là một trong yếu tố của tài năng. Năng lực sáng tạo, tạo ra những điều chưa có, tạo sản phẩm mới là đỉnh cao tài năng. Chăn trở đuổi kịp, vượt qua, dẫn dắt thế giới đến an lạc.
Tiến hóa là quá trình của tạo hóa, nhưng lại bị cản phá bởi chính con người. Nhiều người có thói quen sáng nào thức dậy cũng chăm chú tìm trên trang nhất các báo viết hoặc bật máy tính “lướt web” để tìm tin tức mới và nóng nhất. Nếu không thấy có gì nổi bật như động đất, khủng bố, hỏa hoạn… là coi như tờ báo đó, trang web đó không “hot” và chẳng có gì để xem cả.
Thực tế trong cuộc sống hàng ngày ta thấy có người chỉ thích đi tìm sự khác biệt để chỉ trích lẫn nhau. Dường như với họ thì mọi luân thường đạo lý, đạo đức chỉ để trong sách vở, trong tôn giáo, họ nói không muốn mất thời gian với nó.

***
Tu chính là sửa. Không phải cứ cắt tóc qui y, cắt ái li thân vào chùa mới là tu. Dù tại gia hay xuất gia, điều quan trọng nhất là phải hành trì. Học cả năm trì một ngày là ngược, là sai. Học một ngày trì cả đời là đúng.
Để bước vào con đường tu sửa cho chính mình nhiều người đã khởi nguyện và thuộc nằm lòng hai câu, chỉ hai câu thôi mọi thứ có thể sẽ thay đổi:
“Con chắp tay cầu Phật
Phật Tỳ Lô Giá Na
Xin cho con gặp mật
Để cứu độ ta bà”
Hoặc :
“Con chắp tay cầu Phật
Đức bổn sư Thích Ca
Xin cho con hiểu Mật
Để phổ độ ta bà”
Nếu bạn đã qui y thì phải trì ngũ giới. Tất cả đều do Nhân Duyên.
Và khi đã quyết thì phải giữ gìn để tuân thủ đúng Năm (5) giới luật:
Một là, không sát sinh
Hai là, không trộm cắp
Ba là, không vọng ngữ
Bốn là, không tham dục
Năm là, không uống rượu, cờ bạc, á phiện
Ăn chay là ăn các loại thức ăn có nguồn gốc từ thực vật, không ăn thịt cá hoặc những chế phẩm khác có nguồn gốc từ động vật vì liên quan đến sát sinh… Ngoài những tác dụng mang giá trị tinh thần rất lớn, ăn chay còn làm da dẻ hồng hào sáng láng và thân thể khỏe mạnh.
 Không cần ăn bất cứ loại thịt cá nào con người vẫn có thể sống khỏe mạnh như thường. Bởi giá trị dinh dưỡng của các món ăn chay là không hề thua kém. Thậm chí, ăn chay còn có nhiều tác dụng như giảm được bệnh mỡ máu, bệnh cao huyết áp, ngăn chặn và đẩy lùi bệnh tiểu đường. Ăn chay cũng có công năng giảm béo và loại bỏ được nhiều bệnh tật ra khỏi cơ thể và đặc biệt là thanh thản sẽ bắt được những làn sóng thanh cao vi tế. Cái ti vi cũng vậy; nếu được lau chùi sạch sẽ, không bám bụi bẩn, không bị đoản mạch, chắc chắn bắt sóng sẽ tốt hơn.
Lương thực khô còn khả năng nảy mầm. Hoa quả đều có nhựa sống, kể cả khi sôi gấc nấu đã chín nhưng hạt gấc sau đó vẫn có thể nảy mầm. Chúng khác xa với thực phẩm “ác thực” được chế biến từ động vật vốn rất nặng trọc, bởi chúng được cấu thành từ sự thấp hèn mang đầy thú tính của kiếp bàng sinh (xương sống nằm ngang). Trục xương sống không thẳng, không hướng thiên được như con người.
Một con số khiến nhiều người phải giật mình: Trong cả nước ta, nếu chỉ cần tự nguyện ăn chay trong hai ngày Sóc Vọng là mùng Một (1) và ngày Rằm (15) hàng tháng, thì sẽ tiết kiệm được khoảng Ba lạng thịt mỗi người/tháng. Thử mang con số đó đem nhân với giá thành 70.000 đồng/kg x 12 tháng x 84 triệu người sẽ được một con số khá thú vị là 21.168 tỉ đồng Việt Nam. Số tiền đó đủ để xây được 80.671 ngôi nhà cấp hai hoặc 118.125 ngôi nhà cấp bốn cho người nghèo với giá xây dựng hiện nay là 4.100.000 đồng/m2 nhà cấp hai và 2.800.000 đồng/m2 nhà cấp bốn). Ấy là chưa nói đến sự lãng phí cho khoản tiền đốt vàng mã trong những dịp cúng bái vô bổ.
“Chùa to Phật có to đâu
Phải chi tốt lễ rễ cầu Phật thương
Cố tình đốt quá nhiều hương
Khói xuống âm phủ Diêm Vương phạt liền”
Trong tâm thế sẵn sàng chia sẻ với cộng đồng, mỗi người chỉ cần ăn chay hai ngày/tháng là cả nước đã dôi ra một khoản tiền không nhỏ cho mục đích vì người nghèo...
Khi mọi người ý thức được trách nhiệm cộng đồng cao hơn quyền lợi cá nhân ích kỷ, đường dây tâm linh sẽ được thiết lập và nối liền với nhiều bờ bến xa lạ để tất cả trở nên thánh thiện gần gũi thân quen.
Được chế biến từ những vật phẩm vốn thanh sạch nhất trong tự nhiên, các món chay làm cho người ăn được nhẹ nhõm hiền hòa hơn, tuổi thọ của mỗi người chắc chắn sẽ kéo dài hơn, loài người sẽ bớt đao binh thù nghịch và thế giới sẽ chỉ còn sự nhường cơm sẻ áo vui vẻ nhiệt thành.
Ăn chay dễ dàng đến nỗi ai cũng có thể thực hiện được. Không mất chỉ được!
Cho nên ai đó làm được những việc bác ái vô vị lợi như: Phẩm son tô điểm sơn hà, làm cho sáng giá tâm già chồi xanh là điều đáng mừng lắm.
Phép thuật, thần thông biến hóa ai cũng thích nhưng lại kêu khó, thậm chí còn không tin… nhưng thực ra điều đó rất dễ, ai cũng có thể làm được! Nhất là người giàu có chức tước càng dễ. Chỉ cần thật lòng hô một câu “Biến” sau đó tự khai tài sản minh bạch, hoặc đem tiền cho người cần vay đầu tư cho sự phát triển của đại chúng, hoặc giúp cho người nghèo một cách vô vi lợi. Người đó sẽ có thần thông và thiền là đường dẫn. Nếu từ nay ta bỏ lối cũ để mỗi dịp Tết cấp trên xuống thăm hỏi tặng quà cấp dưới, Tổng giám đốc thăm công nhân viên, huyện xuống xã, xã xuống thôn đến tận người dân… xã hội sẽ có thay đổi đáng kể về đạo đức, mọi người sẽ thân ái hơn. Tham nhũng sẽ giảm mạnh khi ngộ đạo vô thường và không ai sợ bị quả báo v.v..
Nghe chuyện Thái tử Tất Đạt Đa từ bỏ ngai vàng đi tu thả y bát xuống sông. Khi bát đã trôi xa khuất trong dòng nước cuốn mạnh, Thái tử nguyện một câu… y bát đã ngược dòng, dẫn đến sự đổi thay đường tu khổ hạnh. Thái tử tọa thiền nơi gốc cây Bồ Đề 49 ngày thành Phật.
Tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát luôn đứng ngoài trời mặc nắng mưa… với tâm nguyện rằng một người chưa ngộ đạo chưa về trời.   
7. CỨ ĐI SẼ TẠO THÀNH ĐƯỜNG
VÀ ĐẠO ĐỨC SINH NĂNG LỰC

Mặt đất vốn hoang vu, cứ đi mãi sẽ tạo thành đường. Nhưng luyện Thân - Khẩu - Ý miệt mài cũng chưa chắc đã tạo Nhân.
Trong quá trình này, chúng ta phải tự mình giải thoát, loại bỏ những dấu vết cuối cùng của sự tham chấp để ta không còn vướng kiểu nửa tỉnh nửa mê. Nó đòi hỏi con người ta phải có nội lực thâm hậu và tâm hồn giàu có, phải có tư duy độc lập và kỷ luật với ý chí rất cao.
Nếu người ta biết tu sửa tinh thần trong cuộc sống hàng ngày, tâm hồn sẽ tốt đẹp cao thượng hơn để sẵn sàng làm những việc ích lợi cho xã hội cộng đồng, đồng thời đi đến loại trừ những việc ích kỷ có hại cho những người xung quanh mình.
Nguyên nhân của các cuộc chiến tranh, phần lớn đều bắt nguồn từ những tham vọng cưỡng đoạt, từ những mối hận thù hằn dấu lịch sử, hoặc từ những quyền lợi sắc tộc và phe phái v.v.. Nhỏ thì cậy quyền ỷ thế để phá hoại quyền lợi và hạnh phúc của người khác. Lớn thì làm diệt vong cả một dân tộc, một quốc gia.
Dựa vào lịch sử mà ta biết được rằng: Quốc tổ của ta từ thời Kinh Dương Vương, nhưng do Ngài không màng tới ngai vị, bỏ lỏng quản lí đất nước thời Động Đình và giao lại cho Lạc Long Quân cai quản, nhưng Vua con cũng không màng đến ngai vị, thường lãng du đó đây. Đến Bắc Ninh đã gặp một nàng tiên rất đẹp và ngỏ lời cầu hôn… Nhưng nàng tiên này có cá tính rất mạnh, không chịu về làm dâu và nói với Lạc Long Quân rằng: Nếu yêu thiếp, chàng phải vui lòng ở rể, dứt khoát không về làm dâu. Thật bất ngờ Lạc Long Quân đã vui lòng ở lại và đã cùng nhau đẻ ra cái bọc trăm trứng… Nàng tiên đó chính là mẹ Âu Cơ. Tuy đến bây giờ người ta vẫn chưa lí giải được chuyện đó, nhưng dân gian vẫn tương truyền đời này qua đời khác hàng nghìn năm là như vậy.
Tương truyền cũng rất lạ lùng vì cho rằng; trong câu chuyện trên hai người đều là thần tiên và đã sống với nhau hàng nghìn năm. Cuộc chia tay sau đó đã diễn ra một sự kiện rất quan trọng, đó là truyền lại ý chí lập quốc cho Hùng Vương, có thể nói đây là điều trước đó chưa từng có. Theo sử sách thì con người lúc đó đang sống theo bộ lạc. Vua Hùng đã có công rất lớn, đến khắp các bộ tộc lúc bấy giờ vận động thành lập nước Văn Lang.
Lịch sử Việt Nam còn ghi lại rằng: chính nhà sư Vạn Hạnh đã nuôi dưỡng, đào tạo một chú tiểu tại chùa Tiêu Sơn. Trước đó do Lý Khánh Vân là em trai, nuôi một thời gian. Lý Khánh Vân thấy đây là đứa trẻ phi thường, biết mình chưa đủ khả năng nuôi dưỡng một mầm năng lượng vĩ đại, nên đã giao cho anh là Sư Vạn Hạnh.
 Vua Lý Công Uẩn là người xuất thân từ trong chùa Tiêu Sơn, nói đến vua Lý là người ta nhớ đến đạo Phật.
Sư Vạn Hạnh dường như là một siêu nhân, đã đào tạo được một vị vua anh minh, truyền được tám đời, đến Lý Chiêu Hoàng. Ngày 11 tháng 12 năm 1225 Lý Chiêu Hoàng thiết triều ở điện Thiên An. Trước bá quan văn võ đã tự trút bỏ áo ngự mời phu quân Trần Cảnh lên ngôi. Trần Cảnh chính thức trở thành Hoàng đế nước Đại Việt đánh dấu một cuộc đổi ngôi không đổ máu, chấm dứt triều đại nhà Lý, mở triều đại nhà Trần.
Có lẽ vì được tổ tiên báo trước, nên Lý Long Tường biết dòng họ Lý chỉ tồn tại được tám đời. Thêm nữa, không muốn xảy ra binh đao với họ Trần, nên Lý Long Tường đã rời sang Hàn Quốc… Rồi sau bao đời, hậu duệ của ngài lại tìm về quê hương bản quán ở Việt Nam.


Tiến sỹ Triệu Tài Vinh Ủy viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy Hà Giang đứng giữa bên phải Lê duy Hảo tại buổi lễ gặp mặt đầu năm 2011 (kêu gọi đầu tư) với những người từng công tác ở Hà Giang nay ở Hà Nội.
Ở Hà Giang, thời ông Nguyễn Trường Tô làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, ai cũng biết “vụ cướp mỏ Tùng Bá - Na Sơn”; sau này, sự quả báo như thế nào với ông ta thì ai cũng biết, nhưng hậu quả thì chỉ những kẻ bất chính trong vụ cướp đoạt đó mới thấm sâu tận gốc rễ. Như phần trên chúng tôi đã đề cập “tham nhũng cướp đoạt” lấy một đền mười… phúc họa có nguồn là như vậy. Sự hèn kém về tinh thần chắc chắn song hành với hành vi. Còn sự cao quí ngay trong ý thức của con người chắc chắn kéo theo hành động.
Khổng Tử nói: “Quí nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhân tại hạ nhi vô phụ, thị nhĩ động nha hữu hối dã”; nghĩa là nếu cho mình là cao quí hơn người khác tức là đã mất đi địa vị tôn kính, bởi vì ăn trên ngồi chốc có thể mất lòng dân, nên dù dưới quyền có hiền nhân cũng không được phò tá. Trong tình huống này nếu cứ động một tí là hối hận “hậu hối”. Do đó Khổng Tử gọi là “quí mà không có chức vị”. Nên phải hiểu qui luật, kế hưng suy để ứng xử.
Hành vi được bắt nguồn từ bức xạ thần kinh não bộ rồi đến hình thành trạng thái tinh thần gọi là ý thức. Từ ý thức biểu hiện thành động tác, tức là hình thành hành vi của con người.
Hoạt động tâm lí là hoạt động vô hình. Hoạt động sinh lí, hành động, hành vi cộng lại có thể trở thành bệnh lí. Có thể biến thành “tẩu hỏa nhập ma”. Mọi cái có thể tha thứ như trộm cướp, giết người… nhưng lịch sử không tha thứ “quan to” không có nhân cách.
Làm bất cứ việc gì cũng đều có kết quả chờ đợi. Cho nên trước hết, phải nghĩ đến kết quả không tốt cũng có thể xảy ra. Nhiều nhà khoa học, doanh nhân thành đạt, người có thành tích đều có kết quả là tuổi thọ rất ngắn.
Thi hào Nguyễn Trãi nói rằng: Họa phúc hữu môi phi nhất nhật, cái họa cái phúc thường có nguồn không phải đến một buổi.
Đạo Phật có câu: Đắc đạo không che mờ nhân quả, dù đắc đạo nhưng vẫn còn nằm trong qui luật của trời đất.
Khoa học và mê tín chỉ có ranh giới như là sợi chỉ mỏng manh. Con đường nào rời bỏ được “tham, sân, si” là đường đạo. Con đường có dấu chân Phật đó rất nhẹ nhàng, nhiều lúc như bay bổng, nó khác cuộc sống tương tàn tương sát lẫn nhau. Những kẻ tham lam, bạo tàn sẵn sàng “tước đoạt” tài sản của người khác. Khi có nhiều tiền họ xây chùa, đúc tượng to lớn, lấy thần phật làm lá chắn hòng che chở cho mình. Nhưng thần thánh không phải hàng rào che chắn cho những kẻ vô minh. “Tham, sân, si” có thể dẫn đến vô vàn "nghiệp chướng". Ngay tại cõi ta bà này, lương tâm con người còn không thể chấp nhận được, hồng trần không lẫn lộn trắng đen, huống hồ là các bậc Đại trí, Đại dũng.  Thần Phật có bao giờ che chở cho những kẻ gây nhiều tội lỗi? Kẻ cướp xây chùa không kéo dài được tuổi thọ, kẻ gian tham đúc chuông không át được những lời sám hối muộn mằn.
Gần đây ở đỉnh núi Tùng Bá - Na Sơn, huyện Vị Xuyên - tỉnh Hà Giang mới mọc lên một ngôi chùa trên con đường và mỏ mà Công ty Sông Lô đã đầu tư những năm trước. Điều trớ trêu là họ đã xây chùa ngay sau khi cướp đoạt được mỏ này từ công sức của bao con người lao động chân chính, đã khai sơn phá thạch, đã từng làm trong  5 năm khổ nhọc.
          Báo chí và dư luận tiến bộ ngày ấy cho rằng “bát cơm đến miệng bị hắt đi” mà người đứng đầu tỉnh chỉ đạo là ông Nguyễn Trường Tô Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang... Sự linh và ứng… quả báo tiếp theo như thế nào, với những ai chắc không thể biết trước được. Nó cần thời gian và sự thật tích tụ mới chuyển hóa trong không gian, qua thời gian, đám sương mù che đậy dần lộ ra… phúc họa hiện hữu, phúc họa đều có nguồn. Vũ lực chinh phục được tất cả nhưng kết quả của nó lại tự chống lại chính người ra lệnh "quả báo".
Con người ta có 7 bí huyệt quan trọng, còn được gọi là “Thất khiếu”, đó là trung tâm giao điểm sinh lực hay còn gọi là xa luân. Che đậy 7 cái bí huyệt này là lớp màng cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần, để ngăn chặn ảnh hưởng cõi âm, vì tham quyền, tham tiền, tham danh, tham lợi… dẫn đến tham ăn những rượu thịt cá say bí tỉ suốt ngày, những món ăn mang đầy “ác thực” sinh khí cướp đoạt, ác nghiệp sẽ tự phá vỡ những tấm màng này, khi bị rách, bị thủng sẽ ảnh hưởng tới cõi âm... khiến cho họ bị rối loạn thần kinh, mất tự chủ, không phân biệt được đúng sai phải trái, ma quỉ nhập vào sai khiến.
Không ít người “mũ cao áo dài” nghênh ngang đấy mà hoá ra bị ma quỷ sai khiến từ bao giờ, mà họ không hề hay biết. Tiếc thế!
Nhìn lại các cuộc chiến tranh phi nghĩa, ta thường thấy nó chỉ phục vụ cho lợi ích một nhóm người, nhưng đã làm sụp đổ biết bao những thành trì kiên cố, làm diệt vong bao nhiêu vương triều khiến triệu triệu người mất mạng.
Tu chí luyện công, nhập thiền định làm thân tâm trong sạch thì trí sáng; giúp ta tẩy sạch ô nhiễm nơi tinh thần làm “mỹ hóa thân tâm”.
Thời gian như một đường ngầm. Đó là những hạt tử được vận động nơi ẩn tánh, nó không vận động theo đường cong mà chỉ rung động và tự xoay rất nhanh.
Nghệ sỹ nhân dân Đặng Thái Sơn nói đại ý: Không chỉ tôi mà thế giới người ta rất sợ hai tiếng “thần đồng”. Vì, nó là con dao hai lưỡi.
Từ xưa, một triết gia người Trung Quốc là Lão Tử đã nói: “Tích kim di hại tử tôn” nghĩa là để lại nhiều vàng bạc là để lại tai hoạ cho con cháu. Nhưng hầu như con người hậu thế vẫn không hết lòng tham.
“Tích kim dĩ dĩ tử tôn
Tử tôn vị tất đăng thủ
Tích thư dĩ dĩ tử tôn
Tử tôn vị tất đăng đọc
Nhược bằng tích âm đức
Minh minh chi trung
Dĩ dĩ tử tôn trường cửu như kế”
Ai cũng cố cho có được thật nhiều gia sản để lại cho con cháu đời sau. Xét dưới góc độ nào đó thì con cái do mình sinh ra, thực tế, vẫn không phải con thật của mình mà là giả tạm của trời đất, chuyển hóa, hòa nhập và tái sinh.
Những quan niệm như: giọt máu đào hơn ao nước lã; cha mẹ sinh con trời sinh tính, những vụ án ghê người do chính ruột thịt sát hại… không bút sách nào dám tả lại hết. Có những người ngoài sống có trách nhiệm với nhau hơn cả ruột thịt. Nhìn góc độ nào đó chúng ta đều là anh em trong muôn kiếp trước. Nếu còn phân biệt thái quá sẽ có nguy cơ mất đoàn kết, phe phái, lớn hơn là chiến tranh.

***
Sức mạnh đạo đức xuất phát từ tâm linh. Sức mạnh ấy chỉ có được trong sự tĩnh lặng của thiền định hoặc do tự tu tập kiên trì, thông qua các hoạt động xã hội và cách thức đối nhân xử thế cẩn thận khiêm tốn, nó khác xa và hơn hẳn những kẻ chỉ biết nói năng lưu loát với đầu óc giảo hoạt.  
Hiểu được báu vật của thế giới nội tại chúng ta sẽ bỏ bớt được tài sản phù phiếm. Để đạt tới mức toại nguyện, cần phải có chìa khoá mới mở được kho tàng bên trong. Cái chìa khóa vàng ấy là các phép tu Du già, Nghi quỹ Yoga…
Khi ta đã mở được cái nắp đậy của lỗ hổng rất nhỏ trong óc và khi ta thiền định với ý thức cao ngay lập tức luồng hỏa hầu thức giấc sẽ dâng mạnh và ngược lên theo xương sống để chui vào và ngự tại đây. Khi đó ta sẽ khai mở được nhiều quyền năng, kéo dài sự sống, xóa đi tất cả bệnh tật nghiệp chướng, thông suốt tất cả ách tắc vướng mắc mọi bề. Nhưng khó khăn nhất vẫn là việc làm sao để mở được cái nắp đậy trên óc của mình khi thiền định.
Theo Kinh sách Ấn Độ giáo Hinduism, thần Shiva truyền dạy môn này cho hiền triết Gheranda. Nhà hiền triết này lại dạy cho các đệ tử của mình. Nhưng chỉ có trò Marteyanda là lĩnh hội được các nội dung tinh tuý và mang phổ biến sâu rộng trong giới trí thức thời đó.
Du già Yoga là một hệ thống kiến thức gồm nhiều môn khoa học như: thiên văn, địa lý, triết học, toán học v.v… Các Đạo sỹ Yoga cho rằng luyện tập môn này sẽ giúp họ khám phá ra các năng lực màu nhiệm tiềm tàng hòng giúp mình đạt được các phép thần thông biến hóa.
Một nhà nghiên cứu cho biết: Trong thời cực thịnh, Yoga phát triển khắp nơi và lôi cuốn đông đảo giới hiền triết, trí thức.
Theo thời gian, thời hoàng kim đó đã qua. Nhân loại đang sa vào hố thẳm của sự sa đọa vật chất thành thực thể bị lôi cuốn vào những cám dỗ xác thịt.
Để chống lại sự phá sản tâm linh này, các hiền triết đã hội thảo để cố tìm một giải pháp. Sau cùng họ đi đến kết luận: Cho phép truyền dạy một phần của môn Yoga cho quần chúng như một biện pháp ứng phó mang tính chất tình thế nhất thời.
Phần được truyền dạy này trích ở chương Yuj “cái ách” gồm các phương pháp trói buộc tinh thần lẫn thể xác trong một kỷ luật khắt khe, nhằm mục đích tập trung Tâm và Thân làm một với bản thể trời đất. Nó đã được truyền bá khắp nơi và tồn tại cho đến ngày nay.
Vì trích ở chương Yuj nên nó được gọi là Yoga. Nên nhớ, đây chỉ là một phần rất nhỏ của môn Yoga nguyên thuỷ. Vậy mà phần nhỏ này cũng chỉ rất ít người hiểu rõ một cách đúng đắn. Đa số đã hiểu sai nên mới có các lối tập luyện kỳ dị với các lối tu khổ hạnh và các tư thế kỳ quặc. Như các đạo sĩ nằm bàn đinh, giơ cánh tay lên trời cho đến khi nó khô kiệt. Sự luyện tập như thế không có ích gì mà cũng chả mang lại một kết quả nào. Đối với đa số, Yoga đã bị hạ thấp xuống thành một môn thể dục để giúp thân thể khỏe mạnh cường tráng. 

Bản người Dao đã định cư ở Hoàng Su Phì
Cầu treo nối trung tâm huyện và bản người Dao

"Mỏ" nước khoáng nóng ở xã Thông Nguyên-huyện Hoàng Su Phì-Hà Giang
                                                    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét